THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TỔNG QUAN<br />
VỀ CẤU TRÚC PHA CỦA MÔ HÌNH<br />
CHẤT HẠT NHÂN CHIRAL<br />
Một bức trạnh tổng quan về các chuyển pha trong mô hình chất hạt nhân chiral được xem xét<br />
dựa trên mô hình Nambu-Jona-Lasinio mở rộng (ENJL). Có ba vùng chuyển pha, một là chuyển pha<br />
khí - lỏng đặc trưng cho chất hạt nhân, hai là chuyển pha chiral đặc trưng vùng cho tương tác mạnh,<br />
và cuối cùng là chuyển pha quark-hadron đặc trưng cho vùng phá vỡ giam cầm. Chuyển pha quark-<br />
hadron xảy ra ở mật độ và nhiệt độ rất cao, từ một pha của chất hạt nhân chiral bao gồm các hadron<br />
và meson bị giam cầm sang trạng thái quark và gluon được giải phóng. Kết quả chỉ ra có một vùng<br />
giống quarkyonic, xuất hiện sau khi đối xứng chiral đã được khôi phục và ngay trước khi giam cầm<br />
bị phá vỡ, ở đó các cơ chế kích thích cơ bản vẫn là nucleon.<br />
1. Tình hình nghiên cứu hiện nay các sao neutron tương đối lạnh nhưng đậm đặc<br />
Khám phá cấu trúc pha của sắc ký lượng hay không. Về mặt thực nghiệm, việc tạo ra và<br />
tử (QCD) chắc chắn là một trong những chủ đề xác định QGP là mục tiêu cuối cùng của các va<br />
thú vị nhất trong lĩnh vực vật lý tương tác mạnh. chạm ion nặng tương đối tính. Những dấu hiệu<br />
Ngay từ những năm 70, sau khi nhận ra rằng các thành công đầu tiên đã được báo cáo trong các<br />
hadron bao gồm các quark và gluon bị giam cầm, thông cáo báo chí tại CERN (SPS) [5] và BNL<br />
người ta đã lập luận rằng quark và gluon sẽ bị (RHIC) [6], mặc dù việc giải thích dữ liệu vẫn<br />
phá vỡ giam cầm ở nhiệt độ hoặc mật độ cao khi còn đang được tranh luận. Có rất ít nghi ngờ rằng<br />
các hadron chồng chéo mạnh và làm mất tính cá QGP sẽ được tạo ra tại Máy va chạm Hadron lớn<br />
nhân của chúng [1,2]. Trong bức tranh này, có hai (LHC), hiện đang được chế tạo tại CERN.<br />
pha riêng biệt, pha hadronic, ở đó quark và gluon Ít nhất ở mức sơ đồ, giản đồ pha hiển thị ở<br />
bị giam cầm, và pha gọi là plasma quark-gluon Hình 1a vẫn là hình ảnh tiêu chuẩn trong khoảng<br />
(QGP) nơi chúng không còn bị giam cầm. Kịch hai thập kỷ. Cụ thể, khả năng có nhiều hơn một<br />
bản này được minh họa trong Hình 1a cho giản pha không giam cầm không được tính đến. Mặc<br />
đồ pha trong mặt phẳng thế hóa và nhiệt độ. Giản dù cặp Cooper trong chất quark lạnh, đậm đặc<br />
đồ kiểu này được vẽ trong [2] và có thể thấy trong<br />
(siêu dẫn màu) đã được đề cập từ năm 1975 [1]<br />
nhiều tài liệu khác [3,4]. và đã được nghiên cứu thêm trong [7, 8, 9], sự<br />
Trong tự nhiên, QGP chắc chắn tồn tại liên quan của ý tưởng này đối với sơ đồ pha QCD<br />
trong vũ trụ sơ khai, vài micrô giây sau Vụ nổ đã bị bỏ qua mãi cho đến cuối thập niên 90. Vào<br />
lớn khi nhiệt độ rất cao. Không rõ liệu vật chất thời điểm đó, các phương pháp tiếp cận mới về<br />
quark không giam cầm có tồn tại trong tâm của tính siêu dẫn màu cho thấy các khoảng trống liên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
20 Số 58 - Tháng 03/2019<br />
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
quan trong phổ fermion có thể ở mức 100 MeV<br />
[10, 11], lớn hơn nhiều so với dự kiến trước đó.<br />
Do các khoảng trống lớn hơn có liên quan đến<br />
nhiệt độ tới hạn lớn hơn, điều này có nghĩa là có<br />
sự mở rộng đáng kể của vùng siêu dẫn màu vào<br />
hướng nhiệt độ. Do đó, ngoài hai pha tiêu chuẩn,<br />
cần có một vùng không đáng kể trong sơ đồ pha<br />
QCD trong đó vật chất tương tác mạnh là chất<br />
siêu dẫn màu [12-15]. Cánh cửa đã mở ra cho<br />
nhiều khả năng mới. Hình 1: Giản đồ pha QCD trong mặt<br />
phẳng thế hóa - nhiệt độ. Hình 1a (phía trên bên<br />
Điều này được minh họa bằng các sơ đồ trái): giản đồ pha chung trước siêu dẫn màu, ví<br />
ba pha còn lại của Hình 1, được lấy từ các nghiên dụ xem [3, 4]. Các giản đồ khác được lấy từ các<br />
cứu tiếp theo. Người ta hy vọng rằng ở thế hóa tài liệu. Hình 1b (góc trên bên phải): [17]. Hình<br />
cao các quark up, down, lạ được ghép cặp thành 1c (góc dưới bên trái): [23]. Hình 1d (góc dưới<br />
một ngưng tụ khóa vị màu (CFL) [16]. Tuy nhiên, bên phải): [14].<br />
điều này có thể trở nên bất lợi ở mật độ thấp hơn,<br />
2. Cấu trúc pha của hạt nhân<br />
nơi các quark lạ bị triệt tiêu do khối lượng của<br />
chúng. Do đó, có thể trong một vùng trung gian Từ những năm năm mươi của thế kỉ<br />
có pha siêu dẫn màu thứ hai (2SC) ở đó chỉ có các trước, nghiên cứu chuyển pha của vật chất xuất<br />
quark up và down được ghép cặp. Kịch bản này hiện và trở thành một trong những vấn đề thời sự<br />
được mô tả trong giản đồ của Hình 1b [17]. Gần của vật lý hiện đại. Nghiên cứu chuyển pha được<br />
đây, các pha tiếp theo, như chất siêu dẫn màu ba các nhà vật lý quan tâm trong nhiều lĩnh vực khác<br />
vị có ngưng tụ kaon (CFL-K) [18, 19, 20] hoặc nhau từ vật lý hạt cơ bản đến vật lý thiên thể học.<br />
chất siêu dẫn màu kết tinh (pha LOFF) [21, 22] Trong đó, cùng với cấu trúc pha của QCD, các<br />
cũng đã được đề xuất, có thể một phần (Hình 1c chuyển pha trong chất hạt nhân đã thu hút được<br />
[14]) hoặc thậm chí hoàn toàn (Hình 1d [23]) nhiều sự quan tâm của các nhà vật lý. Các công<br />
thay thế cho pha 2SC. trình nghiên cứu về chuyển pha trong các mô<br />
hình khác nhau hầu hết chỉ đề cập đến chuyển<br />
Hình 1, chỉ là một bản tổng hợp không đầy<br />
pha nhiệt, đây là chuyển pha được sinh ra bởi sự<br />
đủ các đề xuất gần đây, minh họa sự phong phú<br />
thăng giáng nhiệt của các đại lượng vật lý khi<br />
về tiềm năng của cấu trúc pha, vốn không được<br />
nhiệt độ thay đổi và do đó tuân theo các nguyên<br />
đánh giá cao trong một thời gian dài. Đồng thời,<br />
lý của nhiệt động học.<br />
rõ ràng là vấn đề không được giải quyết. Lưu ý<br />
rằng tất cả các sơ đồ pha được hiển thị trong hình Đối với chất hạt nhân, điều quan trọng là<br />
chỉ mang tính mô tả, tức là chỉ có phỏng đoán, phải mô tả được đồng thời tính chất bão hòa hạt<br />
dựa trên các kết quả lý thuyết hoặc lập luận nhất nhân và phục hồi đối xứng chiral. Tính chất bão<br />
định. Trong tình huống này và do kết quả chính hòa của vật chất hạt nhân được mô tả thành công<br />
xác từ QCD khá hạn chế, các tính toán mô hình theo mô hình hạt nhân tương đối tính Walecka<br />
có thể cung cấp một công cụ hữu ích để kiểm [24] và phiên bản đơn giản của nó dựa trên mô<br />
tra những ý tưởng này và đề xuất những ý tưởng hình Nambu-Jona-Lasinio [25-27]. Cơ chế cơ<br />
mới. bản của bão hòa là sự cân bằng giữa lực đẩy và<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Số 58 - Tháng 03/2019 21<br />
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
lực hút giữa các nucleon ở một giá trị cụ thể của bão hòa ở mật độ thường ngay cả trong mô hình<br />
mật độ baryon. Mặc dù mô hình này đã mang lại NJL tiêu chuẩn. Tuy nhiên, trong trường hợp này,<br />
nhiều kết quả thành công cho chất hạt nhân và hạt khối lượng hiệu dụng nucleon ở ρB = ρ0 được dự<br />
nhân hữu hạn, nhưng mô hình này vẫn chưa bao đoán nhỏ bằng nửa giá trị thực nghiệm của nó.<br />
quát được miền vật chất có mật độ cao, chưa tái Gần đây, chúng tôi đã xem xét lại khả<br />
hiện được chuyển pha chiral, thường được chấp năng sử dụng phiên bản mở rộng của mô hình<br />
nhận là một trong những đối xứng cơ bản của chiral NJL mở rộng (ENJL) có tính đến tương<br />
tương tác mạnh. Sự chuyển pha chiral trong trạng tác vectơ - vô hướng để nghiên cứu chất hạt nhân<br />
thái vật chất đậm đặc đóng một vai trò quan trọng ở nhiệt độ hữu hạn và cấu trúc pha của nó [39].<br />
trong nghiên cứu tính chất vật lý của hạt nhân bị Phiên bản ENJL này tái tạo tốt các đặc tính bão<br />
kích thích cũng như cấu trúc của các ngôi sao nhỏ hòa quan sát được của vật chất hạt nhân như mật<br />
và sự tiến hóa của vũ trụ sơ khai. độ cân bằng, năng lượng liên kết, mô đun nén<br />
Có một số mô hình chiral có khả năng và khối lượng hiệu dụng nucleon ở ρB = ρ0. Nó<br />
được sử dụng để mô tả chất hạt nhân. Phổ biến cho thấy một chuyển pha loại một (của loại khí -<br />
nhất là mô hình sigma tuyến tính [28] và mô hình lỏng) xảy ra ở mật độ bão hòa; chuyển pha này có<br />
Nambu-Jona-Lasinio (NJL) [29]. Chúng có thể mặt trong bất kỳ mô hình thực tế nào về chất hạt<br />
giải thích sự phá vỡ tự nhiên của sự đối xứng nhân. Hơn nữa, mô hình được xem xét bởi [40]<br />
chiral trong chân không và sự phục hồi của nó ở dự đoán sự phục hồi đối xứng chiral ở mật độ<br />
mật độ năng lượng cao. Nhưng các phiên bản đơn baryon cao, ρB ≥ 2,2 ρ0 khi T ≤ 171 MeV, ở nhiệt<br />
giản nhất của các mô hình này lại không thể tái độ cao T > 171 MeV khi ρB < 2,2 ρ0. Giản đồ pha<br />
tạo các đặc tính bão hòa hạt nhân. Cụ thể, mô hình của mô hình được cho trong Hình 2.<br />
sigma tuyến tính chỉ dự đoán một trạng thái bất<br />
thường của chất hạt nhân [30] trong đó đối xứng<br />
chiral được khôi phục và khối lượng hiệu dụng<br />
của hạt nhân biến mất. Một số mô hình tinh vi<br />
hơn của loại này đã được đề xuất [31-35]. Mặc dù<br />
chúng có thể tái tạo trạng thái bão hòa hạt nhân,<br />
nhưng những vấn đề mới lại xuất hiện trong các<br />
mô hình này; cụ thể, một số trong chúng không<br />
dự đoán sự phục hồi đối xứng chiral ở mật độ<br />
baryon cao. Cũng có những nỗ lực sử dụng mô<br />
hình NJL để mô tả vật chất hạt nhân lạnh [36-38]. Hình 2: Các chuyển pha của chất hạt nhân<br />
Người ta đã tranh luận [36,37] rằng chất hạt nhân chiral trong mặt phẳng (T, μB). Đoạn đường ngắn<br />
bị ràng buộc với sự đối xứng chiral bị phá vỡ ở μB=923 MeV, mô tả chuyển pha khí - lỏng loại<br />
tự phát là không thể trong các mô hình NJL tiêu một. CEP(T=18 MeV, μB=922 MeV) là điểm cuối<br />
chuẩn. Các tác giả của [36] đề xuất thêm các số tới hạn của chuyển pha này. Đường đứt nét mô<br />
hạng tương tác vectơ - vô hướng bổ sung để tái tả chuyển pha chiral loại hai. CP(T=171 MeV,<br />
tạo các tính chất bão hòa quan sát được của chất μB=980 MeV) là điểm ba tới hạn, ở đó đường<br />
hạt nhân. Mặt khác, người ta đã chỉ ra [38] rằng cong biểu diễn chuyển pha chiral loại một (đường<br />
bằng cách giả sử giá trị đủ thấp của tham số cắt liền nét) gặp đường cong biểu diễn chuyển pha<br />
động lượng (Λ ~ 0,3 GeV), có thể tạo ra trạng thái chiral loại hai (đường đứt nét).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
22 Số 58 - Tháng 03/2019<br />
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Mô hình cho hai vùng chuyển pha riêng là pha quark-gluon plasma (QGP). Tính toán của<br />
biệt. Đầu tiên, nó cho thấy quá trình chuyển pha QCD đã thiết lập sự tồn tại một pha phá vỡ giam<br />
khí lỏng loại một xảy ra ở mật độ dưới bão hòa cầm vật chất ở nhiệt độ lớn hơn T~170 MeV. Đã<br />
ứng với m*/mN ~ 0,66, từ (T=0, μB=923 MeV) và có nhiều đề xuất và thảo luận về các phiên bản<br />
kéo dài đến điểm cuối tới hạn (CEP) tại (T≈18 khác nhau liên quan đến quá trình phá vỡ giam<br />
MeV, μB≈922 MeV). Thứ hai, sự phục hồi đối cầm của hadron ở mật độ và nhiệt độ cao nhưng<br />
xứng chiral ở nhiệt độ 0 xảy ra chính xác tại mật vẫn chưa rõ ràng. Quá trình chuyển pha loại 1<br />
độ tới hạn ρc≈2,2ρ0. Ở nhiệt độ khác 0, chuyển được gợi ý bởi nhiều mô hình nghiên cứu [41] và<br />
pha chiral loại 2 xảy ra ở trong vùng (0≤ T ≤171 [40]. Một trong những kết quả trực tiếp của giả<br />
MeV, 980≤ μB ≤1210 MeV), kéo dài từ (T=0, thiết này là sự xuất hiện của vùng pha trộn hadron<br />
μB=980 MeV) và kết thúc tại điểm ba tới hạn, và quark trong quá trình chuyển pha.<br />
CP(T≈171 MeV, μB≈980 MeV), tại đó có sự bắt Quá trình giải phóng khỏi sự giam cầm là<br />
đầu của chuyển pha loại một. quá trình chuyển pha giữa các vật chất hadronic<br />
Như vậy, sử dụng mô hình chất hạt nhân và quark-gluon. Các nghiên cứu lý thuyết về quá<br />
chiral để khảo sát các tính chất hạt nhân ở nhiệt trình chuyển pha hoặc giản đồ pha trên mặt phẳng<br />
độ và thế hóa hữu hạn, ta phát hiện thấy có hai nhiệt độ - thế hóa ở trạng thái nóng và mật độ hữu<br />
giản đồ pha; giản đồ pha của chuyển pha khí - hạn là những thành quả gần đây nhất. Trong môi<br />
lỏng loại một của chất hạt nhân xảy ra tại mật độ trường cực nóng hoặc đậm đặc đối với hệ pha<br />
dưới mật độ bão hòa và giản đồ pha của chuyển trộn quark-hadron, có thể tồn tại ở nhiều pha khác<br />
pha chiral với hai loại chuyển pha, được chia tách nhau với mô hình phá vỡ đối xứng [42].<br />
bởi điểm ba tới hạn xảy ra ở mật độ cao và/hoặc Nghiên cứu về quá trình chuyển pha<br />
ở nhiệt độ cao. Chính việc loại bỏ khối lượng chiral ở nhiệt độ cao, các đại lượng nhiệt động<br />
trần của nucleon, yếu tố trực tiếp gây phá vỡ như phương trình khe, mật độ baryon, mật độ<br />
đối xứng chiral trong biểu thức của hàm mật độ năng lượng và EoS có thể được khai triển quanh<br />
Lagrangian đã khiến mật độ Lagrangian của mô giới hạn chiral. chúng ta nhận ra rằng quá trình<br />
hình thỏa mãn chính xác bất biến chiral, trở nên chuyển pha chiral ở nhiệt độ cao là quá trình<br />
hoàn thiện hơn. Nhờ vậy, mô hình chất hạt nhân chuyển pha loại một ở nhiệt độ lớn hơn T≈171<br />
chiral đã bộc lộ một cách rõ ràng kịch bản chuyển MeV (xem Hình 2). Ví dụ ở nhiệt độ T=190 MeV<br />
pha chiral trong chất hạt nhân, một trong những vùng màu xám (ngưng tụ chiral) là một hàm đa<br />
tính chất cơ bản của vật chất tương tác mạnh. trị và cho ta thấy nó là một trạng thái hỗn hợp của<br />
pha hạt nhân nóng và pha chiral nóng. Khi T≥171<br />
3. Sự chuyển pha từ hadron sang quark MeV ngưng tụ chiral có thể rơi xuống bằng không<br />
Gần đây, nghiên cứu chuyển pha hadron- ngay cả với giá trị thấp nhất của thế hóa hoặc/<br />
quark (HQ) là một trong những chủ đề nóng của và mật độ baryon. Điều này gợi ý rằng khi vật<br />
vật lý hiện đại. Cơ chế giam giữ là một thuộc tính chất được làm đủ nóng, các hadron trở nên mất<br />
nội tại của động lực học lượng tử QCD - lý thuyết khối lượng và bắt đầu phủ lên nhau và các quark,<br />
cơ bản của tương tác mạnh. Khi nhiệt độ hoặc gluon có thể di chuyển tự do trong không - thời<br />
mật độ rất lớn, các tương tác giam cầm quark gian lớn hơn. Trong hình này, TH≈171MeV là<br />
và gluon trong hadron trở nên yếu dần đi và giải nhiệt độ giới hạn cho quá trình chuyển pha sang<br />
phóng chúng khỏi nơi giam giữ. Pha mà quark và tự do giữa hadron, quark và gluon. Chúng ta có<br />
gluon được giải phóng khỏi sự giam giữ được gọi thể gọi là giới hạn chiral.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Số 58 - Tháng 03/2019 23<br />
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ở nhiệt độ thấp, nhưng khác không, với hạn nên chúng bắt đầu phủ lên nhau và phủ lên<br />
khả năng bổ sung nhiệt làm bay hơi các nucleon các túi của nucleon ban đầu sao cho tạo thành<br />
độc lập từ bề mặt của các giọt hạt nhân. Ở nhiệt một mạng lưới các vùng có chứa các quark, phản<br />
độ thấp và mật độ thấp hơn mật độ trạng thái cơ quark và gluon được hình thành. Tại một nhiệt<br />
bản, có sự trộn pha của các nucleon và các giọt độ tới hạn TC nhất định, các vùng này sẽ lấp đầy<br />
hạt nhân. Điều này gợi nhớ lại hiện tượng chuyển toàn bộ thể tích trong quá trình thẩm thấu. Trạng<br />
pha của nuóc, khi ở nhiệt độ phòng và áp suất thái mới của vật chất này là quark-gluon plasma<br />
bình thường tồn tại một hỗn hợp pha của phân (QGP). Chân không trở lên tầm thường và các<br />
tử nước và những giọt nước. Thay đổi mật độ có thành phần cơ bản bắt đầu tương tác yếu đi. Tuy<br />
thể làm thay đổi thành phần tương đối của phân nhiên, có một sự khác biệt cơ bản với plasma điện<br />
tử và giọt. Ngoài mật độ các giọt lấp đầy toàn bộ từ thông thường đó là sự chuyển pha gây ra do ion<br />
thể tích và đi vào pha lỏng, trong khi ở dưới mật hóa và diễn ra từ từ. Do sự giam cầm, không có<br />
độ các mảnh giọt cuối cùng thành các phân tử và sự giải phóng các quark và bức xạ gluon ở dưới<br />
đi vào pha khí. Trạng thái này là dạng điển hình nhiệt độ tới hạn. Đến đây, một quá trình chuyển<br />
cho chuyển pha loại một. Trong trường hợp này, pha tương đối sắc nét được mong đợi.<br />
chuyển pha được gọi là chuyển pha khí - lỏng của Như vậy từ chất hạt nhân chiral, khi<br />
nước. Trong chất hạt nhân cho thấy một tính chất tăng nhiệt độ và mật độ, đã xảy ra chuyển pha<br />
tương tự, mô tả pha khí của chất hạt nhân ở thế sang pha quark-gluon plasma (QGP). Quá trình<br />
hóa thấp và pha lỏng của chất hạt nhân ở thế hóa chuyển pha được suy ra từ cấu trúc Gibbs ở ranh<br />
lớn hơn (Hình 2). giới các pha. Theo cấu trúc này, chuyển pha từ<br />
Một bức tranh tương tự xảy ra ở nhiệt độ hadron sang quark là loại một. Nghĩa là, ranh<br />
cao nơi tính đối xứng chiral được phục hồi và các giới pha thu được theo yêu cầu: ở thế hóa không<br />
nucleon phá bỏ sự giam cầm. Quá trình này được đổi, áp suất của QGP bằng với áp suất trong pha<br />
gọi là dịch chuyển quark-hadron. Ở nhiệt độ cao, hadronic. Kết quả là đường cong ranh giới pha<br />
ngay cả khi mật độ baryon thấp, chất hạt nhân (đường gạch chấm) trên mặt phẳng T-μ chỉ ra trên<br />
không chỉ có các nucleon mà còn chất khác, các Hình 3.<br />
hadron bị kích thích, các hadron nhẹ, các pion, là<br />
phổ biến nhất. Ở nhiệt độ cao và thế hóa baryon<br />
thấp, thang đo xung lượng điển hình cho sự tán<br />
xạ giữa các hadron được xác định bởi nhiệt độ<br />
T. Nếu nhiệt độ ở cùng bậc hoặc lớn hơn xung<br />
lượng cắt ΛQCD, thì tán xạ giữa các hadron bắt<br />
đầu động đến cấu trúc quark-gluon của chúng.<br />
Hơn nữa, vì mật độ hạt gia tăng theo nhiệt độ,<br />
các hàm sóng của hadron sẽ bắt đầu phủ nhau ở<br />
nhiệt độ lớn. Hình 3: Quá trình chuyển pha hadron<br />
Khi vật chất nóng, hạt nhân cuối cùng quark (đường chấm màu xanh) của chất hạt<br />
phân rã thành proton và neutron (nucleons). Đồng nhân chiral nóng sang quark-gluon plasma trong<br />
thời các hadron nhẹ (chủ yếu là các pion) gây nên mặt phẳng (T, μB). Vùng màu tối là sự xuất hiện<br />
nhiệt, lấp đầy không gian giữa các nucleon. Do của pha hỗn hợp quark-hadron trong quá trình<br />
không gian của các pion và hadron sinh nhiệt có chuyển pha chiral nóng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
24 Số 58 - Tháng 03/2019<br />
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhận ra từ Hình 3 rằng có một khu vực đồ pha (Hình 3) xuất hiện ngay sau khi phục hồi<br />
nơi quá trình chuyển pha HQ xảy ra ngoài sự đối xứng chiral nhưng nằm dưới chuyển pha pha<br />
phục hồi đối xứng chiral ở phía pha hạt nhân, vỡ giam cầm được đặc trưng bởi đường chuyển<br />
trong đó khối lượng nucleon bằng không. Đây là pha quark-hadron. Pha này như một pha kích<br />
một pha trong đó các kích thích cơ bản nucleonic thích, nghĩa là vẫn trong pha hạt nhân, chứ không<br />
(hadronic) vẫn tồn tại nhưng nằm trong đối xứng phải pha quark (nghĩa là chưa phá vỡ giam cầm),<br />
chiral ngay trước khi chuyển sang pha quark bằng nhưng đối xứng chiral đã được phục hồi. Pha này<br />
chuyển pha HQ, tức là có một vùng mà ở đó khối có thể tương ứng với pha quarkyonic, được giới<br />
lượng hiệu dụng của nucleon bằng không nhưng thiệu như là một chất giam cầm đối xứng chiral.<br />
các nucleon chưa phá vỡ sự giam cầm để giải Ở đây, chúng ta đã bỏ qua pha siêu dẫn<br />
phóng quark. Khu vực này đã được đề xuất gần màu mà nó có thể tồn tại trong các hệ mật độ<br />
đây bởi McLerran và Pisarski dựa trên các đối số hữu hạn và liên quan đến pha quarkyonic. Vì vậy,<br />
Nc lớn [43], cái gọi là vật chất quarkyonic như nhiệm vụ đầy thử thách tiếp theo có thể là nghiên<br />
là một trạng thái mới của vật chất đặc trưng bởi cứu các pha của chất hạt nhân, bao gồm hạt nhân<br />
sự giam cầm nhưng đã phục hồi đối xứng chiral. siêu lỏng và quark-gluon plasma, và cũng bao<br />
Pha chiral này nằm ngoài pha hạt nhân đối xứng gồm trạng thái siêu dẫn màu. Hơn nữa, người ta<br />
thông thường và được dự đoán bởi mô hình trên tin tưởng rằng chất sao neutron trải qua quá trình<br />
có thể tương ứng với pha quarkyonic. chuyển pha với quark-gluon plasma ở nhiệt độ<br />
Cái tên “quarkyon” diễn tả thực tế vật chất cao hoặc ở mật độ cao. Do đó, đây cũng là một<br />
bao gồm các baryon bị giam cầm nhưng vẫn hoạt vấn đề thú vị để nghiên cứu sự chuyển pha giữa<br />
động như các quark đối xứng chiral ở mật độ cao. chất sao neutron và chất quark. Điều này giúp<br />
Có thể có các hiệu ứng phi nhiễu liên quan đến chúng ta hiểu biết thêm về sao neutron, và phát<br />
sự giam cầm và phục hồi đối xứng chiral gần bền triển vật lý các sao neutron.<br />
mặt Fermi, vì còn những tương tác nhạy với hiệu<br />
ứng tầm xa, nhưng các tính chất khối lại trông<br />
như các quark tự do. Nguyễn Tuấn Anh<br />
4. Kết luận Khoa Kỹ thuật hạt nhân, Đại học Điện lực<br />
Quá trình chuyển pha ở các nhiệt độ và _________________________________<br />
<br />
mật độ khác nhau đã được nghiên cứu trong mô TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
hình chiral ENJL có tính đến tương tác vectơ - vô<br />
[1] J.C. Collins and M.J. Perry, Phys. Rev.<br />
hướng đã cho một bức tranh tổng thể về các cấu Lett. 34 (1975) 1353.<br />
trúc pha từ chất hạt nhân đến quark. Đối với chất [2] N. Cabibbo and G. Parisi, Phys. Lett. 59B<br />
hạt nhân, có hai chuyển pha tách biệt, chuyển pha (1975) 67.<br />
khí lỏng và chuyển pha chiral. Đối với quá trình [3] J. Cleymans, R.V. Gavai, and E. Suhonen,<br />
chuyển pha từ hadron sang quark, phía hadron là Phys. Rep. 130 (1986) 217.<br />
chất hạt nhân chiral và phía quark là quark-gluon [4] H. Meyer-Ortmanns, Rev. Mod. Phys. 68<br />
(1996) 473.<br />
plasma (chưa tính đên tương quan cặp quark),<br />
[5] U. Heinz and M. Jacob, nucl-th/0002042.<br />
được kết hợp thông qua điều kiện cân bằng pha<br />
[6] Brookhaven National Laboratory, press<br />
Gibbs và cho chuyển pha loại một. release 03-49, http://www.bnl.gov/ bnlweb/<br />
pubaf/pr/2003/bnlpr061103.htm.<br />
Có một pha đáng quan tâm từ giản<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Số 58 - Tháng 03/2019 25<br />
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
[7] B. Barrois, Nucl. Phys. B 129 (1977) 390. 1986), Vol. 16, p. 1.<br />
[8] S.C. Frautschi, Asymptotic freedom and [25] Tran Huu Phat, Nguyen Tuan Anh, and<br />
color superconductivity in dense quark matter, Le Viet Hoa, Nucl. Phys. B 772 (2003) c548.<br />
in: Proc. of the Workshop on Hadronic Matter at [26] Tran Huu Phat, Nguyen Tuan Anh,<br />
Extreme Energy Density, N. Cabibbo (ed.), Erice Nguyen Van Long and Le Viet Hoa, Phys. Rev. C<br />
1978. 76 (2007) 045202.<br />
[9] D. Bailin and A. Love, Phys. Rep. 107 [27] Tran Huu Phat, Nguyen Tuan Anh and<br />
(1984) 325. Nguyen Van Long, Phys. Rev. C 77 (2008)<br />
[10] M. Alford, K. Rajagopal, and F. Wilczek, 054321.<br />
Phys. Lett. B 422 (1998) 247. [28] M. Gell-Mann and M. Levy, Nuovo<br />
[11] R. Rapp, T. Sch¨afer, E.V. Shuryak, and Cimento 16, 705 (1960).<br />
M. Velkovsky, Phys. Rev. Lett. 81 (1998) 53. [29] Y. Nambu and G. Jona-Lasinio, Phys.<br />
[12] K. Rajagopal and F. Wilczek, “The Rev. 122, 345 (1961); 124, 246 (1961).<br />
Condensed Matter Physics of QCD”, in: B.L. [30] T. D. Lee and G. C. Wick, Phys. Rev. D<br />
Ioffe Festschrift At the Frontier of Particle 9, 2291 (1974).<br />
Physics / Handbook of QCD, vol. 3, edited by M.<br />
Shifman, World Scientific, Singapore, 2001, pp. [31] J. Boguta, Phys. Lett. B 120, 34 (1983).<br />
2061–2151. [32] I. N. Mishustin, J. Bondorf, andM. Rho,<br />
[13] M. Alford, Ann. Rev. Nucl. Part. Sci. 51 Nucl. Phys. A 555, 215 (1993).<br />
(2001) 131. [33] G. W. Carter and P. J. Ellis, Nucl. Phys.<br />
[14] T. Sch¨afer, Quark Matter, in: A.B. A 628, 325 (1998).<br />
Santra et al. (Eds.), ”Quarks and Mesons”, Proc. [34] P. Papazoglou, S. Schramm, J. Schaffner-<br />
of the BARC workshop on Quarks and Mesons, Bielich, H. St¨ocker, and W. Greiner, Phys. Rev.<br />
Bhabba Atomic Research Center, Mumbai, India C 57, 2576 (1998).<br />
(2003), Narosa Publishing House, New Delhi<br />
(2004); hep-ph/0304281. [35] P. Papazoglou, D. Zschiesche, S.<br />
Schramm, J. Schaffner-Bielich, H. St¨ocker, and<br />
[15] D.H. Rischke, Prog. Part. Nucl. Phys. 52 W. Greiner, Phys. Rev. C 59, 411 (1999).<br />
(2004) 197.<br />
[36] V. Koch, T. S. Biro, J. Kunz, and U.<br />
[16] M. Alford, K. Rajagopal, and F. Wilczek, Mosel, Phys. Lett. B 185, 1 (1987).<br />
Nucl. Phys. B 537 (1999) 443.<br />
[37] M. Buballa, Nucl. Phys. A 611, 393<br />
[17] K. Rajagopal, Nucl. Phys. A 661 (1999) (1996).<br />
150c.<br />
[38] I. N. Mishustin, in Proceedings of the<br />
[18] T. Sch¨afer, Phys. Rev. Lett. 85 (2000) International Conference on Nuclear Physics at<br />
5531. the Turn of Millenium,Wilderness, 1996, edited<br />
[19] P.F. Bedaque and T. Sch¨afer, Nucl. Phys. by H. St¨ocker, A. Gallman, and J. H. Hamilton<br />
A 697 (2002) 802. (World Scientific, Singapore, 1997), p. 499.<br />
[20] D.B. Kaplan and S.Reddy, Phys. Rev. D [39] Tran Huu Phat, Nguyen Tuan Anh,<br />
65 (2002) 054042. and Dinh Thanh Tam, Phys. Rev. C 84, 024321<br />
(2011).<br />
[21] M. Alford, J. Bowers, and K. Rajagopal,<br />
Phys. Rev. D 63 (2001) 074016. [40] Nguyen Tuan Anh and Dinh Thanh Tam,<br />
Phys. Rev. C 84 (2011) 064326.<br />
[22] J. Bowers and K. Rajagopal, Phys. Rev.<br />
D 66 (2002) 065002. [41] T. Schaefer, arXiv:0509068; P. Braun-<br />
Munzinger and J. Wambach, Rev. Mod. Phys. 81<br />
[23] M.G. Alford, Nucl. Phys. Proc. Suppl. (2009) 1031.<br />
117 (2003) 65.<br />
[42] K. Fukushima and T. Hatsuda, Rep. Prog.<br />
[24] D. B. Serot and J. D. Walecka, in Phys. 74 (2011) 014001.<br />
Advanced Nuclear Physics, edited by J. W.<br />
Negele and E. Vogt (Plenum Press, New York, [43] L. McLerran and R. D. Pisarski, Nucl.<br />
Phys. A796 (2007) 83; Y. Hidaka, L. McLerran<br />
and R. D. Pisarski, Nucl.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
26 Số 58 - Tháng 03/2019<br />