Vắcxin phòng chng ung thư cổ tử cung: hiệu quả
m sàngkinh tế
Nguyễn Văn Tuấn
Sau những lùm xùm chung quanh việc cấp giấy phép lưu hành vắcxin phòng
chống ung thư cổ tử cung, Bộ Y tế đã nhất trí độ tuổi được tiêm chủng phòng ngừa
ung thư 10-25. Câu hỏi đặt ra hiện nay là liệu vắcxin đem lại hiệu quả kinh
tế cho người dân?
Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần phải điểm qua vài s thật về qui mô và quá
trình phát triển ung thư cổ tử cung (UTCTC).
Ở nước ta, UTCTC là một loại ung thư phổ biến, nhất là ở các tỉnh phía Nam. Tại
Thành phHồ Chí Minh và min Nam nói chung, hàng m, c100.000 phụ n
thì 26 người được chẩn đoán mắc bệnh UTCTC, và tlnày cao gấp 4 lần so
với tỉ lệ Hà Nội và phnTây phương. Tại các nước Tây phương như Mĩ và
Úc đông người Việt trú, vấn đề UTCTC phụ nữ Việt cũng được giới y tế
địa phương đặc biệt quan m bởi vì tlệ phát sinh trong cộng đồng người Việt
thuộc vào hàng cao nhất thế giới.
Phần lớn trường hợp ung thư cổ tử cung là do virút HPV gây ra. HPV ch yếu lan
truyền qua quan hệ tình dục. Tỉ lệ nhiễm HPV cao nhất nữ trong độ tuổi
cường độ hoạt động tình dục cao (tức trong tuổi 18 đến 30), và giảm sau tuổi 30.
trên 100 týp HPV, nhưng trong snày, bốn týp HPV chính là 16, 18, 31,
45. Trong số này, hai týp HPV 16 và 18 chiếm khoảng 70% trường hợp UTCTC.
Hiệu quả lâm sàng của vắc-xin có ý nghĩa gì?
Hiện nay, đã hai loại vắcxin (Gardasil Cervarix) được phát triển và có hiệu
qugiảm nguy nhiễm virút HPV týp 16, 18, 11 6. Kt quả các nghiên cứu
lâm ng cho thấy những phụ nữ tuổi từ 15 đến 26, cả hai vắcxin đều hiệu
quả ngăn ngừa nhiễm HPV (hay tiền ung thư) từ 98% đến 100%.
Tuy nhiên, một điều quan trọng cần phải nhấn mạnh là hiệu quả 98-100% không
có nghĩa là vắcxin ngăn ngừa 98% đến 100% ca ung thư cổ tử cung. Để hiểu được
phát biểu đó, cần phải điểm qua 4 giai đoạn phát triển của một tế bào bình thường
đến tế bào ung thư như sau:
Giai đoạn 1 là bnhiễm HPV. Như nói trên phần lớn ung tcổ tử cung là do
nhiễm HPV, nhưng không phải bất cứ ai bị nhiễm HPV đều có ung thư! Trong
thực tế, ở độ tuổi đôi mươi (hay khi mới có quan hệ tình dục),khoảng 60% đến
80% phnữ bị nhiễm HPV; nhưng sau 12 tháng, 70% trong số này không còn b
nhiễm nữa, và sau 24 tháng chỉ còn 9% tiếp tục bị nhiễm HPV.
Sau khi bnhiễm HPV, một trong ba tình hung m sàng s xảy ra: hoặc là virút
chthụ động (tức là ch mặt trong tế o nhưng không gây tác hại); hoặc là
virút sgây nên một vài bệnh liên quan đến ctử cung; hoặc virút stiến triển và
làm hại tế bào gây tên tình trạng “tiền ung thư”.
Giai đoạn 2 là tiền ung thư. Phnữ nằm trong tình trạng này vẫn bình thường, và
vẫn chưa thể gọi là mắc bệnh “ung thư”. Đây chính giai đoạn mà y khoa muốn
nhận bệnh ngăn ngừa bnh trước khi tế bào phát triển thành ung thư. Chỉ
khoảng 10% phụ nữ bị nhiễm HPV (giai đoạn 1) trở thành tiền ung thư. Phần lớn
những phụ nữ bị tiền ung thư thường ở độ tuổi 25 đến 29. Nói cách khác, thời gian
tkhi bị nhiễm HPV đến tiền ung thư kéo dài t5 đến 10 m. Khoảng 1 phần 3
trường hợp trong giai đoạn này skhông phát triển thành ung thư, nhưng khoảng
12% sphát triển thành ung thư chưa di căn (giai đoạn 3)
Giai đoạn 3 ung thư chưa/không di căn (thuật ngữ y khoa gọi là carcinoma in-
situ). giai đoạn này, tế bào dấu hiệu ung thư nhưng chỉ giới hạn trong cổ t
cung, và do đó điều trị có thể đem lại kết qukhả quan. Một số trường hợp ung
thư cổ tử cung giai đoạn này cũng không phát triển thêm, một số trường hợp
thì bệnh tự nhiên biến mất!
Giai đoạn sau cùng ung thư di căn, tức là tế bào ung thư m lấn sang các cơ
phận khác, đây chính giai đoạn nguy hiểm nhất của bệnh. Nhưng chỉ khoảng
1% trường hợp từ giai đoạn 2 phát triển thành loại ung thư nguy hiểm giai đoạn
cuối này. Phần lớn phụ nữ mắc bệnh trong giai đoạn này là 50 tuổi trở lên, tức sau
thời kì mãn kinh.
Không phải bệnh nhân nào cũng tiến triển từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 4. Trong
thực tế, có nhiều trường hợp ung thư ở giai đoạn 2 và 3 tnhiên dừng lại và không
còn biểu hiện ung thư nữa. Ngay cả quá trình hình thành phát triển ung thư
thường biến chuyển với tốc độ khác nhau, tùy thuộc vào hthống miễn dịch đủ
mạnh hay không. Do đó, danh từ “ung thư” trong thực tế bao gồm một số thực th
được “tiến hóa” bằng nhiều cách khác nhau.
Do đó, hiệu quả m sàng của vắc-xin được đcập trên báo ctrong các báo
cáo khoa học là hiệu quả ngăn ngừa tiền ung t (tức giai đoạn 2), chứ không phải
ngăn ngừa ung thư ở giai đoạn chưa di căn hay giai đoạn di căn.
Hiệu quả kinh tế
Thế thì câu hỏi đặt ra là nếu vắc-xin có hiệu quả ngăn ngừa tiền ung thư 100%,
với quá trình phát triển ung thư như trình bày trên, thì vắc-xin này sngăn nga
bao nhiêu trường hợp ung thư trong một quẩn thể? Chúng ta chưa câu trlời
cho câu hỏi này, bởi đơn giản chưa nghiên cứu nào theo dõi một quần thể t
lúc bnhiễm HPV, tiêm chủng vắc-xin, cho đến khi ung thư ctử cung phát sinh.
Một nghiên cứu như thế kéo dài nhiều thập niên và không thực tế
Do đó, câu trả lời không đơn giản, và phải dựa vào mô hình toán học. Nói một
cách ngắn gọn, hiểu quả của vắc-xin trong một quần thể tùy thuộc vào các giả định
vhiệu quả phòng chống tiền ưng thư, tỉ lệ sử dụng vắc-xin bao nhiêu.
mức độ đơn giản nhất, giả dụ như chúng ta tiêm chủng vắc-xin cho 100% phnữ
ở độ tuổi vị thành niên (trước khi có quan hệ tình dục), tôi ước tính rằng vắc-xin s
ngăn ngừa được khoảng 51% ung thư chưa di căn và di căn. Ước tính này cũng
phù hp với một số mô phỏng công bố trên các tập san khoa học.
Ở nước ta, hàng năm có khoảng 6.000 phụ nmắc ung thư cổ tử cung, và hiệu quả
trên cũng nghĩa là chúng ta sngăn ngừa khoảng 3.000 trường hợp UTCTC.
Câu hỏi đặt ra đối với Nhà nước và hội là sca mà vắc-xin giảm hiu quả
kinh tế như thế nào? thhình dung một “kịch bản” tối ưu, trong đó tất c
các phnữ trong độ tuổi 10-25 đều được tiêm vắc-xin. Theo thống kê, nước ta
khoảng 18,6 triệu nữ trong độ tuổi 10-25. Nếu tất cả đều được tiêm 3 liều vắc-xin,
và mỗi liều vắc-xin tốn 100 USD, thì tổng chi phí cho xã hội là 5,58 tỉ USD. Theo
y văn, hiệu quả của vắc-xin thkéo dài 10 năm, do đó trong thời gian 10
năm, chúng ta thể ngừa 30.000 ca UTCTC. Theo đó, đề ngăn ngừa một ca
UTCTC, hội phải tốn 186.000 USD. (Mĩ, con số này 140.000 USD vì tần
số UTCTC thấp hơn nước ta). Tuy nhiên, nếu mỗi liều vắc-xin tốn 35 USD thì chi
phí để ngăn ngừa một ca UTCTC là khoảng 65.100 USD.
Hiện nay, thu nhập trung bình tính trên đầu người ở nước ta là 1024 USD. nông
thôn, nơi nguy UTCTC cao, thu nhập bình quân đầu người thể chỉ 500-
700 USD. Đối với những người trong cảnh nghèo khó nông thôn, việc chi ra
300 USD hay 105 USD để tiêm vắc-xin ngừa UTCTC rõ ràng một quyết định
khó khăn. Những phân tích trên cho thấy tiêm vắc-xin chưa hẳn là hiệu qu
kinh tế đối với những người thu nhập thấp. Do đó, tôi nghĩ ngành y tế hai
lựa chọn: một là thương lượng với các công ti dược về giá vắc-xin để triển khai
tiêm chủng qui mô cộng đồng, hoặc hai Nhà nước hỗ trợ các gia đình nghèo
khó nông thôn để tiêm chủng phòng ngUTCTC. Trong cả hai lựa chọn, cần
phải nghiên cứu đnhận dạng những người nguy mắc bệnh UTCTC cao
(chẳng hạn như có tiền sử bệnh UTCTC trong gia đình) để nâng cao hiệu quả kinh
tế của chiến lược phòng bệnh.
Tầm soát và phòng bnh
Vắc-xin hiệu quả ngăn ngừa sự phát sinh tiền ung thư tuổi trẻ, nhưng một số
phnữ dù không tiền ung thư tuổi thiếu niên vẫn phát sinh UTCTC độ
tuổi sau mãn kinh do đột biến gien. những phụ nữ cao tuổi này, việc tầm soát
cẩn thận thđem lại lợi ích cho một số người. Do đó, một chiến lược phòng
chống UTCTC hữu hiệu phải phối hợp cả hai việc tiêm vắc-xin tuổi vị thành
niên và xét nghim ở tuổi sau mãn kinh.
Cố nhiên, nhng phân tích trên đây không ththay thế các biện pháp phòng chống
khác như phát động phong trào “sống khỏe” các nước Tây phương đã từng
làm. Giáo dục phụ nữ cẩn thận vi quan hệ tình dục, cải thiện chế độ ăn uống lành
mạnh, giảm dùng thuốc ngừa thai, tránh hút thuốc hay gần người hút thuốc lá,
v.v… những biện pháp mà ph nữ thể tự làm được để giảm nguy cơ mắc
bệnh ung thư cổ tử cung.