VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC, NHÀ TRƯỜNG VÀ DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TO,
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP 4.0
ThS. Bùi Thị Quỳnh Trang1
Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) có ảnh hưởng lớn đối với các mặt của đời sống
xã hội, trong đó bao gồm cả vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Nhận diện về CMCN 4.0, tận dụng những thời
, thách thức của cuộc cách mạng này đối với việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động kinh
doanh trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp thiết, cần phải được quan tâm đặc biệt. Nguồn nhân lực chất
lượng cao luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển, là tài sản vô giá của mọi quốc gia, vùng
lãnh thổ và doanh nghiệp. Đối với ngành Du lịch, yêu cầu phát triển mới, thời đại công nghiệp 4.0, buộc đội
ngũ nhân lực làm trong ngành Du lịch phải nâng cao, cập nhật các tri thức, nắm bắt khoa học kỹ thuật có
liên quan đến ngành nghề, vững vàng về kiến thức chuyên môn... để tạo nên lợi thế cạnh tranh. Bài viết đã
tập trung khai thác vai trò của 3 nhà: Nhà nước, nhà trường và nhà sử dụng lao động (doanh nghiệp) trong
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch thời đại công nghiệp 4.0, kết hợp với việc nghiên cứu bài học kinh
nghiệm của Nhật Bản từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của 3 nhà trong đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực du lịch.
Từ khóa: nhân lực du lịch, CMCN 4.0, doanh nghiệp, liên kết
Abstract: The 4th Industrial Revolution (CMCN 4.0) has a great influence on the aspects of social life,
including human resource training. Identifying CMCN 4.0, taking advantage of opportunities and challenges
of this revolution for the development of human resources for business activities in the current period is
an urgent issue, need to be paid special attention. special. High quality human resources are always the
most important factor of development, invaluable assets of all countries, territories and businesses. For the
tourism industry, new development requirements, industrial era 4.0, forcing the human resources in the
tourism industry to improve and update the knowledge, capture the science and technology related to the
industry, firmly in professional knowledge ... to create a competitive advantage. The article has focused on
exploiting the connection between 3 houses: the State, the school and the employer (enterprise) in training,
developing human resources for tourism in the industrial era 4.0, combined with the Researching lessons of
Japanese experience, then proposing solutions to strengthen links of 3 houses in training and improving the
quality of tourism human resources.
Keywords: tourism human resources; The 4th Industrial Revolution; enterprises; links.
1 Email: trangquynh88@gmail.com, Khoa Khách sạn – Du lịch, Trường Đại học Thương mại.
682 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang mở ra nhiều hội cho các nước, đặc biệt các nước
đang phát triển như Việt Nam nâng cao năng suất rút ngắn khoảng cách phát triển. Trong bối
cảnh CMCN nổ ra, sự kết nối giữa mọi người, mọi tổ chức gần như không còn khoảng cách, thời
gian diễn ra sự kiện gần như đồng thời tại mọi nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, Du lịch được coi
ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế xanh, và du lịch Việt Nam muốn hội nhập sâu rộng thì cần tham
gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, cả nước trên 1,3 triệu lao động du lịch, chiếm khoảng 2,5% tổng lao động cả
nước; trong đó chỉ 42% được đào tạo về du lịch, 38% được đào tạo từ các ngành khác chuyển
sang và khoảng 20% chưa qua đào tạo chính quy mà chỉ được huấn luyện tại chỗ. Chính vì thế, số
lao động chuyên môn, kỹ năng cao vừa thiếu, vừa yếu, nhưng số lao động chưa đáp ứng yêu
cầu lại thừa. Dự báo thời gian tới tốc độ tăng trưởng của ngành đạt từ 25 - 35%/năm theo kế
hoạch đến năm 2020, ngành kinh tế du lịch cần khoảng trên 2 triệu lao động chất lượng cao.
Việc thiếu hụt nhân lực du lịch đặt ra dấu hỏi lớn với công tác đào tạo. Bởi theo thống của Vụ
Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có 192 cơ sở tham gia giảng dạy liên quan
đến lĩnh vực này. Trung bình, mỗi năm hệ thống giáo dục cho ra khoảng 18.000 sinh viên ngành du
lịch. Tuy nhiên, theo báo cáo của Tổng cục Du lịch, với tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch như hiện
nay, yêu cầu mỗi năm phải đào tạo thêm 25.000 lao động mới và phải đào tạo lại số lượng tương tự.
Như vậy, trên thực tế mỗi năm, các trường đào tạo chuyên ngành về du lịch chỉ đáp ứng được 60%
nhu cầu của ngành, dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực du lịch và nguồn nhân lực đó
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, dẫn đến tình trạng thừa lao động nhưng thiếu nhân lực chất lượng.
Thách thức này kết hợp với ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi công tác đào
tạo nguồn nhân lực du lịch phải sự đổi mới toàn diện trong tất cả các khâu của quá trình đào
tạo. Trước bối cảnh đặt ra, bài viết: Vai trò của nhà nước, nhà trường doanh nghiệp trong
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch thời đại công nghiệp 4.0” càng trở lên có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cao.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC DU LỊCH TRONG THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP 4.0
2.1. Lý luận về đào tạo nhân lực du lịch
2.1.1. Khái niệm về đào tạo nhân lực du lịch
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đào tạo là quá trình tác động đến một người nhằm làm
cho người đó lĩnh hội nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hệ thống nhằm chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần của
mình cho việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người”.
Liên kết đào tạo được hiểu sự hợp tác giữa các bên tham gia để tổ chức thực hiện các
chương trình đào tạo với những đối tượng, mục đích, nội dung đào tạo đã được thống nhất khi tiến
hành liên kết. Trong thực tế nhiều dạng thức khác nhau trong thực hiện liên kết đào tạo như liên
kết đào tạo giữa nhà trường với nhà trường; liên kết đào tạo giữa nhà trường với các trung tâm,
viện nghiên cứu; liên kết đào tạo giữa nhà trường với doanh nghiệp...
683
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Nhân lực du lịch nguồn nhân lực hoạt động trong ngành du lịch trên một địa bàn cụ thể
trong những khoảng thời gian nhất định.
Đào tạo nguồn nhân lực trong du lịch cũng đào tạo ra những người biết tạo ra các sản phẩm
du lịch đặc sắc để đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của du khách.
Liên kết trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch là nhu cầu khách quan, xuất phát
từ lợi ích của các bên. Xây dựng chế liên kết chặt chẽ giữa quan quản Nhà nước với các
sở đào tạo, dạy nghề với các đơn vị sử dụng lao động. Trong đó: Nhà nước với vai trò định hướng
phát triển nguồn nhân lực du lịch, quản nhà nước trước hết cấp tỉnh ngành Du lịch. sở
đào tạo, dạy nghề vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung ứng nguồn lao động du lịch chất
lượng cao cho các đơn vị sử dụng lao động. Ngược lại, các đơn vị sử dụng lao động sẽ đóng vai
trò là những nhà cung cấp thông tin để các cơ sở đào tạo, dạy nghề nắm bắt được nhu cầu của thị
trường lao động…
2.1.2. Các thành tố của nhân lực du lịch
Cũng như bất kỳ một ngành kinh tế nào khác, kinh tế du lịch cũng bao gồm hai nguồn nhân
lực chính, đó nguồn nhân lực hoạt động trực tiếp nguồn nhân lực hoạt động gián tiếp trong
ngành du lịch. Trong đó nguồn nhân lực hoạt động trực tiếp giữ vai trò quyết định sự thành công
của ngành kinh tế quan trọng này.
Nguồn nhân lực trực tiếp hoạt động trong ngành du lịch, bao gồm:
- Những người làm việc trong các quan quản nhà nước về du lịch: quan chuyên ngành
của Chính phủ, các Bộ, ngành của Trung ương và địa phương. Các cán bộ chuyên môn thuộc Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Các cá nhân và tập thể làm việc tại Tổng cục Du lịch, các bộ phận
chuyên trách thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Những người trực tiếp đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Đây là một bộ
phận đông đảo trong các trường đại học, cao đẳng, trung học nghề của ngành du lịch.
- Những người làm việc trực tiếp trong ngành du lịch: bao gồm toàn bộ cán bộ công nhân viên
tất cả các bộ phận khác nhau nằm trong các công ty du lịch, các hãng lữ hành, các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch trên toàn quốc.
Nguồn nhân lực gián tiếp:
- Những người làm các công việc khác nhau tại các tuyến điểm du lịch: từ các nhân viên bảo
vệ, những người bán kiểm soát vé, những người cung ứng các dịch vụ lưu niệm, dịch vụ ẩm
thực, nghỉ ngơi, giải trí, lưu trú ngắn… đến những người làm công tác điều phối quản giao
thông, vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải.v.v…
- Những cá nhân và tổ chức làm công tác nghiên cứu ở các hình thái và cấp độ khác nhau mà
nội dung và kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến ngành du lịch: các Viện
nghiên cứu phát triển du lịch; các cơ quan kiến trúc, qui hoạch, đầu tư...
- Những người hoạt động trong các lĩnh vực thông tin truyền thông bao gồm các quan
báo chí, đài phát thanh, truyền hình, các nhà xuất bản… mà nội dung thông tin đăng tải do họ cung
cấp có liên quan, phục vụ hoạt động du lịch.
684 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
- Những người làm các khâu công việc liên quan đến việc xuất nhập cảnh của du
khách: các cơ quan ngoại giao, các nhân viên tại các cửa khẩu, các nhân viên an ninh, biên phòng,
hải quan, thuế vụ, kiểm dịch.v.v…
2.2. Mối quan hệ giữa 3 nhà trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch
Nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp, chất lượng cao luôn là mục tiêu bất cứ địa phương
nào cũng hướng đến. Để làm được điều đó cần sự vào cuộc của ba “nhà”: Nhà nước (định hướng
phát triển nguồn nhân lực, quản lý nhà nước trước hết cấp tỉnh và ngành Du lịch); nhà trường (cơ
sở đào tạo) và nhà doanh nghiệp (hoạt động trong lĩnh vực du lịch).
Mối quan hệ giữa 3 nhà được thể hiện thông qua các mối quan hệ chặt chẽ trong hình 2.1 dưới đây:
Hình 2.1: Mối quan hệ giữa 3 nhà trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch
Nguồn: www.spnttw.edu.vn
- Quan hệ giữa nhà trường với doanh nghiệp được thực hiện qua các thỏa thuận hợp tác toàn
diện. Qua đó, doanh nghiệp cung cấp nhu cầu và yêu cầu tuyển dụng, tham gia vào quá trình xây
dựng chương trình đào tạo, phụ trách đào tạo năng lực thực hành nghề nâng cao cho người học.
Nhà trường tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp, tổ
chức đào tạo kiến thức, kĩ năng thực hành nghề cơ bản, và rèn đạo đức nghề nghiệp, luyện kỉ luật
lao động và tác phong công nghiệp cho người học.
- Quan hệ giữa nhà trường với quan quản nhà nước về người lao động được thực hiện
thông qua các cơ chế chính sách phù hợp với pháp luật. Nhà trường tiếp nhận thông tin đào tạo và
đào tạo bổ sung thông qua tổ chức này, đồng thời, cung cấp nguồn nhân lực đã qua đào tạo đến
doanh nghiệp.
Quan hệ giữa cơ quan QL,n
trường với doanh nghiệp trong
Hỗ trợ
cơ sở
đào tạo
về nhu
cầu
nguồn
nhân
lực và
các cơ
chế
cnh
sách
Cơ quan QLNN
về người lao
động
Doanh
nghiệp
Cơ sở
đào tạo
Hỗ trợ
doanh
nghiệp
về nhu
cầu
tuyển
dụng
và cơ
chế
chính
sách
về
ni
lao
động
Thỏa thuận hợp tác giữa nhà
trường với doanh nghiệp
Bối cảnh
685
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
- Quan hệ giữa quan quản nhà nước về người lao động với doanh nghiệp cũng được thực
hiện thông qua các chế chính sách phù hợp với pháp luật. Doanh nghiệp cung cấp nhu cầu
yêu cầu tuyển dụng đến cơ quan quản Nhà nước, đồng thời, được phép tuyển dụng thông qua tổ
chức này. quan quản Nhà nước xây dựng chế nhằm ràng buộc doanh nghiệp trả phí khi
tuyển dụng lao động mà không tham gia đào tạo.
2.3 Ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 đến đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch
Cuộc CMCN lần thứ 4 có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống, kinh tế, hội, chính phủ,
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, an ninh… Đối với kinh tế là những thay đổi về tăng trưởng, việc
làm và bản chất công việc. Đối với chính phủ, đó những tác động tới chỉ đạo điều hành trong
thời đại số, sự tương tác giữa chính quyền người dân. Đối với doanh nghiệp kỳ vọng của
người tiêu dùng, dữ liệu/thông tin sản phẩm, hợp tác đổi mới các mô hình hoạt động mới, các
dịch vụ và mô hình kinh doanh. Đối với xã hội là sự bất bình đẳng giữa các cộng đồng, và bất lợi
cho tầng lớp trung lưu. Đối với cá nhân là quan hệ giữa người với người, vấn đề đạo đức, quản lý
thông tin cá nhân.
Trong khuôn khổ tập trung cho vấn đề đào tạo nhân lực, các nhà kinh tế Erik Brynjolfsson và
Andrew McAfee (2015), What does the Fourth Industrial Revolution mean for our jobsđã chỉ
ra, cuộc cách mạng này cũng có thể tạo ra sự bất công lớn hơn, đặc biệt là gây ra nguy cơ phá vỡ
thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, người lao động
sẽ bị thừa điều đó làm trầm trọng hơn khoảng cách giữa lợi nhuận so với đồng vốn lợi
nhuận so với sức lao động.
Theo Viện Nghiên cứu quản kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin liệu (2018),
Tác động Cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam” đã cho rằng,
CMCN 4.0 ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình việc làm, nó sẽ sự dịch chuyển từ sản xuất thâm dụng
lao động sang thâm dụng tri thức thâm dụng công nghệ. Đặc biệt sẽ làm thay đổi mạnh mẽ
cấu lao động thị trường lao động. Hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần lao động thủ công trong
toàn bộ nền kinh tế, sự chuyển dịch từ nhân công sang máy móc sẽ gia tăng sự chênh lệch giữa lợi
nhuận trên vốn lợi nhuận với sức lao động, điều này sẽ tác động đến thu nhập của lao động giản
đơn và gia tăng thất nghiệp. Số lượng công việc cần lao động chất lượng cao ngày càng gia tăng,
phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt.
Bùi Quang Hải (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 những thách thức, thời ảnh hưởng
đến đào tạo nguồn nhân lực văn hóa, thể thao du lịch”. Tác giả đã chỉ ra rằng CMCN 4.0 sẽ tạo
áp lực buộc người lao động phải chủ động nâng cao năng lực làm việc đáp ứng yêu cầu cạnh tranh
gay gắt với lượng lớn lao động, xu thế chuyển dịch lao động vừa tạo hội tìm kiếm việc làm mới
vừa gia tăng áp lực cho lao động ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tìm kiếm và giữ cơ hội việc
làm nhất lao động trẻ. Do vậy, phát triển thị trường lao động có tổ chức, chất lượng cao đang
sẽ trở thành đòi hỏi bức xúc công cụ đắc lực để hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
nói chung và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch nói riêng.
Mỗi cuộc CMCN diễn ra đều dẫn tới thay đổi mạnh mẽ về cấu nguồn nhân lực, việc
làm. cũng giống như ba cuộc CMCN trước đó, CMCN 4.0 tiềm năng đem lại nhiều lợi
ích cho người lao động thông qua việc tăng năng suất lao động dẫn tới tăng thu nhập, nhiều sản