
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
122
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN
Ngô Thị Tú Oanh1,*, Nguyễn Minh Quân1, Hoàng Thị Như Quỳnh1
1Trường Đại học Kinh tế Nghệ An; *Email: ngothituoanh@naue.edu.vn
Tóm tắt: Luật thuế thu nhập cá nhân được ban hành từ năm 2007, trải qua ba lần sửa
đổi đã góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách nhà nước. Cá nhân và tổ chức thuộc
diện chịu thuế về cơ bản đã thực hiện việc kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân theo đúng
quy định pháp luật. Về phía cơ quan thuế cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tuyên truyền,
thực hiện chính sách pháp luật về thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai,
thực hiện trong cả nước nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng vẫn còn những tồn tại nhất định
cần phải khắc phục. Bài viết này đề cập đến thực tiễn thi hành luật thuế thu nhập cá nhân trên
địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn năm 2020 cho đến nay nhằm đưa ra những kiến nghị để phát
huy hiệu quả của việc áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân trong thời gian sắp tới.
Từ khoá: Thi hành, Thuế thu nhập cá nhân, Nghệ An.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đóng vai
trò quan trọng trong cơ cấu ngân sách nhà
nước, nhất là trong chuyển dịch cơ cấu nguồn
thu theo hướng tích lũy trong nước tăng dần
và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng
thu ngân sách nhà nước. Thuế TNCN góp
phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định
thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Theo Bộ Tài chính
(2023), về hiệu quả của Luật Thuế TNCN cho
thấy, kể từ khi được ban hành vào năm 2007
đến nay, luật đã được rà soát sửa đổi, bổ sung
vào các năm 2012, 2014. Ngoài ra, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
số 954/2020/UBTVQH14 ngày 2/6/2020 về
điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế
TNCN những lần sửa đổi, bổ sung. Việc thực
hiện chính sách thuế TNCN có tính đến các
bước đi phù hợp tình hình kinh tế - xã hội và
thông lệ quốc tế, nhờ đó đã động viên kịp thời
các nguồn lực cho ngân sách nhà nước, giải
quyết tốt hơn các vấn đề xã hội. Về cơ bản,
việc thực hiện Luật Thuế TNCN trong giai
đoạn vừa qua đã đạt được các mục tiêu khi
ban hành.
Mặc dù phần nào đạt được những mục tiêu
đề ra nhưng trong quá trình triển khai thực
hiện vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định như
những quy định về đối tượng chịu thuế, thu
nhập chịu thuế, … chưa có căn cứ phù hợp và
khả thi so với thu nhập thực tế. Bên cạnh
những hạn chế của thể chế thì trong thiết chế
thực hiện cũng bộc lộ những vấn đề cần giải
quyết như việc tuyên truyền, phổ biến chính
sách thuế TNCN chưa được rộng rãi và sâu
sát; một số chính sách miễn thuế TNCN cá
nhân, tổ chức không được thụ hưởng do
không nắm bắt được quy định, … Những vấn
đề này gây ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả
cũng như mục tiêu của việc thu thuế TNCN.
Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh Nghệ An là một
tỉnh rộng, đông dân cư vì vậy quá trình thi
hành Luật Thuế TNCN chắc chắn cũng không
tránh khỏi những vẫn đề còn bất cập cần tháo
gỡ. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu
các quy định hiện nay về thuế TNCN cũng
như thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Nghệ

Tạp chí Khoa học, Tập 3, Số 1/2024
123
An sẽ đánh giá khách quan được những ưu
điểm, hạn chế của các quy định có liên quan
và công tác tổ chức, thực hiện để tăng cường
hiệu quả thực hiện thuế TNCN trên địa bàn
tỉnh Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung.
2. NỘI DUNG
2.1. Một số vấn đề cơ bản của Luật thuế
thu nhập cá nhân
Luật Thuế thu nhập cá nhân đã được QH
khóa XII, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 21-
11-2007 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố
số 13/2007/L-CTN ngày 5-12-2007. Luật
Thuế thu nhập cá nhân gồm bốn chương, 35
điều quy định về đối tượng nộp thuế, thu nhập
chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, giảm
thuế và căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân.
Theo quy định của Luật, đối tượng nộp
thuế là mọi cá nhân cư trú có thu nhập chịu
thuế phát sinh trong và ngoài Việt Nam và cá
nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát
sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định 10
loại thu nhập chịu thuế, trong đó đã loại trừ
các khoản thu nhập không thuộc diện chịu
thuế chủ yếu là các khoản trợ cấp, các khoản
phụ cấp mang tính chất ưu đãi, khuyến khích
của Nhà nước đối với các đối tượng chính
sách xã hội; các khoản thu nhập mang tính
chất bồi thường đền bù; các khoản thu nhập
mang tính chất từ thiện nhân đạo.
Theo đó, Luật quy định thu nhập chịu thuế
gồm: Thu nhập từ kinh doanh; Thu nhập từ
tiền lương, tiền công; Thu nhập từ đầu tư vốn;
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn; Thu nhập
từ chuyển nhượng bất động sản; Thu nhập từ
trúng thưởng; Thu nhập từ bản quyền; Thu
nhập từ nhượng quyền thương mại; Thu nhập
từ thừa kế; Thu nhập từ quà tặng (Điều 3 –
Luật thuế TNCN 2007 sửa đổi, bổ sung).
Bên cạnh quy định về đối tượng nộp thuế
và thu nhập chịu thuế và không chịu thuế,
Luật Thuế thu nhập cá nhân cũng quy định cụ
thể về các khoản thu nhập miễn thuế và các
trường hợp được giảm thuế thu nhập cá nhân.
Thu nhập được miễn thuế gồm: Thu nhập từ
chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với
chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ
nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với
con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội,
bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với
cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. Thu
nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng
đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân
trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở,
đất ở duy nhất. Thu nhập từ giá trị quyền sử
dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất.
Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất
động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ
với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi;
cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ
vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội;
ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị,
em ruột với nhau. Thu nhập của hộ gia đình,
cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy
sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm
khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường. Thu
nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để sản
xuất. Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín
dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Thu
nhập từ kiều hối. Phần tiền lương làm việc
ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so
với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong
giờ theo quy định của pháp luật. Tiền lương
hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả. Thu nhập từ
học bổng. Thu nhập từ bồi thường hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi
thường tai nạn lao động, khoản bồi thường
nhà nước và các khoản bồi thường khác theo
quy định của pháp luật. Thu nhập nhận được

Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
124
từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công
nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân
đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận. Thu
nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài
vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới hình thức
chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt (Điều 4 – Luật
Thuế TNCN 2007 sửa đổi bổ sung).
Luật Thuế TNCN quy định cá nhân có thu
nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ
kinh doanh được giảm trừ vào thu nhập trước
khi xác định thu nhập tính thuế các khoản sau
đây: Khoản giảm trừ gia cảnh; Khoản giảm
trừ cho việc đóng góp từ thiện, nhân đạo; Các
khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với
một số ngành nghề phải tham gia bảo hiểm
bắt buộc. Theo quy định về giảm trừ gia cảnh,
người được xác định là người phụ thuộc của
đối tượng nộp thuế là: Con chưa thành niên,
con bị tàn tật hoặc không có khả năng lao
động. Các cá nhân khác không có thu nhập
hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy
định, bao gồm con thành niên đang học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc
học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng
lao động; bố mẹ đã hết tuổi lao động hoặc
không có khả năng lao động; những người
khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế
phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Luật quy định biểu thuế lũy tiến từng phần
áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh và thu
nhập từ tiền lương, tiền công. Theo đó tỷ lệ
điều tiết thuế được tăng dần từ bậc thu nhập
bậc 1 đến bậc thu nhập thứ 7, với mức thuế
suất áp dụng cho thu nhập bậc 1 là 5% và bậc
thu nhập cao nhất là 35%.
2.2. Thực tiễn thi hành Luật thuế thu
nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh Nghệ An
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong quá
trình thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân
trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Theo Cục thuế tỉnh Nghệ An (2009), ngay
từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực thi hành,
trong 3 tháng đầu năm 2009, ngành Thuế
Nghệ An đã nỗ lực và thu được một số kết
quả khả quan, trong đó số thu từ thuế TNCN
đã thu được 6 tỷ đồng, đạt 23% dự toán cả
năm. Tuy nhiên, số tiền phải thoái trả cho
người nộp thuế đã nộp vào ngân sách phát
sinh từ 1/1/2009 là khoảng hơn 4 tỷ đồng, do
thực hiện chính sách của Nhà nước về giãn
thu thuế TNCN để tạo điều kiện kích cầu,
chống suy giảm kinh tế trong điều kiện nền
kinh tế gặp khó khăn. Ngay từ cuối năm 2008,
Nghệ An đã thành lập Ban Chỉ đạo triển khai
Luật thuế TNCN từ tỉnh đến các huyện, thị và
từ đầu năm 2009 Cục Thuế đã hoàn tất tạo các
điều kiện để các đơn vị thu phấn đấu, áp dụng
các biện pháp thu, xây dựng sáng kiến trong
công tác quản lý thu để hoàn thành kế hoạch.
Các địa phương trong tỉnh đã hoàn thành việc
lập bộ quản lý thuế TNCN cho các hộ kê khai
và hộ khoán thuế ngay từ 1/1/2009.
Cũng theo Cục thuế tỉnh Nghệ An (2022),
công tác tuyên truyền hỗ trợ, hướng dẫn người
nộp thuế đã được triển khai đồng bộ trên nhiều
phương diện, từ tổ chức tập huấn trực tiếp, cho
đến việc tuyên truyền bằng nhiều hình thức
thông qua các phương tiện báo chí, truyền hình.
Đặc biệt là việc thiết lập đường dây nóng, nhằm
giải đáp ý kiến qua điện thoại và tính trung bình
3 tháng triển khai cuối năm 2022 mỗi ngày
đường dây nóng này đã tiếp nhận và giải đáp từ
15 – 20 cuộc điện thoại cho người người nộp
thuế,… Từ đó đã tạo được sự đồng thuận cao
trong quần chúng nhân dân, làm cho phần lớn
người nộp thuế hiểu và thực hiện tốt sắc thuế
mới này.

Tạp chí Khoa học, Tập 3, Số 1/2024
125
Bên cạnh đó, Nghệ An cũng đã xây dựng
được các qui chế phối hợp liên ngành để phục
vụ công tác quản lý thu thuế chung. Như qui
chế phối hợp giữa cơ quan thuế với ngân hàng
– kho bạc về trao đổi thông tin người nộp
thuế, thu nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thuế; Qui chế phối hợp
công tác giữa cơ quan thuế với Sở Tài nguyên
-Môi trường để quản lý thu thuế, thu phí, lệ
phí phát sinh qua hoạt động khai thác tài
nguyên, khoáng sản; Qui chế phối hợp công
tác giữa cơ quan thuế với Sở Lao động
Thương binh và Xã hội về việc trao đổi, cung
cấp thông tin về lao động, tiền lương trong
các tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập. Các qui
chế này thời gian qua đã hỗ trợ tích cực cho
công tác quản lý thuế, thu nợ thuế, chống thất
thu ngân sách và thực hiện tốt pháp luật Nhà
nước trên các lĩnh vực tài nguyên môi trường,
lao động, tiền lương, góp phần xã hội hóa sâu
rộng công tác quản lý thuế.
Theo Cục thuế tỉnh Nghệ An (2022), từ
năm 2009 đến nay, tỉnh Nghệ An đã chủ động
triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp
thu ngân sách, thực thi các chính sách ưu đãi
thuế, phí hỗ trợ, phục hồi sản xuất kinh
doanh, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế sau
đại dịch Covid-19... Kết quả, lần đầu tiên năm
2022 thu ngân sách Nghệ An đạt con số kỷ
lục hơn 21 nghìn tỷ đồng, trong đó nhiều
nguồn thu vượt cao so với kế hoạch trong đó
Thuế TNCN đạt 112% so với dự toán là một
trong 14 nguồn thu vượt dự toán. Đặc biệt,
nhằm thu đúng, thu đủ thuế TNCN chuyển
nhượng bất động sản, các chi cục thuế phối
hợp với các địa phương, cơ quan liên quan
tuyên truyền, vận động người nộp thuế kê
khai lại giá trị chuyển nhượng bất động sản
phù hợp giá trị giao dịch thực tế trên thị
trường. Qua động viên cũng như đấu tranh
của cán bộ nghiệp vụ, người nộp thuế đã kê
khai lại, với giá mua bán thực tăng gấp bốn,
gấp năm lần so giá quy định của Nhà nước.
Chỉ tính riêng ở Chi cục Thuế khu vực Bắc
Nghệ II, số thuế TNCN và lệ phí trước bạ
(chênh lệch) tăng thu ngân sách nhà nước so
với giá trị hợp đồng và khung giá của UBND
tỉnh ban hành được gần 30 tỷ đồng, ...
Theo Cục thuế tỉnh Nghệ An (2023),
khoản thu từ các loại thuế trong đó có Thuế
TNCN có giảm so với năm 2022. Đặc biệt,
thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giảm 300 tỷ đồng, nguyên nhân xuất phát
chủ yếu từ yếu tố khách quan thị trường bất
động sản trầm lắng.
2.2.2. Những hạn chế trong quá trình thi
hành Luật thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn
tỉnh Nghệ An
Thứ nhất, vẫn còn tồn tại những hành vi
gian lận thuế TNCN
Trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay vẫn
xảy ra tình trạng cá nhân tổ chức thực hiện
các hành vi gian lận về thuế TNCN nhằm trốn
tránh hoặc giảm bớt số tiền cần phải nộp thuế
TNCN theo quy định. Những hành vi gian lận
này chủ yếu rơi vào đối tượng là người lao
động thuộc các doanh nghiệp. Theo Trường
Đại học Luật Hà Nội (2023), những hành vi
gian lận này là những hành vi nhằm cố ý làm
sai lệch thông tin khi tính thuế, kê khai khống
người phụ thuộc để tăng mức giảm trừ gia
cảnh. Về phía người lao động, có những hành
vi gian lận phổ biến như: Có những thu nhập
phải tự thực hiện quyết toán thuế TNCN
nhưng lại uỷ quyền cho doanh nghiệp chi trả
thu nhập quyết toán thay; không kịp thời điều
chỉnh thông tin về người phụ thuộc khi không
đủ điều kiện thuộc trường hợp giảm trừ gia
cảnh như người phụ thuộc đã có thu nhập
hoặc đủ tuổi nhất định,…; không kê khai đủ
nguồn thu nhập hoặc kê khai chồng chéo

Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
126
người phụ thuộc khi cùng một người phụ
thuộc đó lại được kê khai giảm trừ gia cảnh ở
cả vợ và chồng.
Về phía doanh nghiệp thì thường kê khai
tiền lương, tiền công của người lao động thấp
hơn so với thực tế, phần tiền thưởng bên cạnh
thu nhập chính thì không được kê khai nhằm
tránh việc phải nộp nhiều thuế TNCN. Đặc
biệt, một số doanh nghiệp đã thực hiện việc
khấu trừ Thuế TNCN của người lao động
những lại cố tình chiếm dụng, trì hoãn hoặc
không nộp vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, hành vi gian lận thuế TNCN còn
thể hiện khá rõ đối với khoản thu nhập từ việc
chuyển nhượng bất động sản. Theo đó, giá
tính thuế TNCN căn cứ vào giá theo hợp đồng
chuyển nhượng nhưng trên thực tế giá chuyển
nhượng cao hơn nhiều lần so với giá trên hợp
đồng chuyển nhượng. Điều này dẫn đến thất
thoát nguồn thu khá lớn đối với thu nhập từ
chuyển nhượng bất động sản.
Bên cạnh đó, để tránh việc phải nộp thuế
TNCN, doanh nghiệp thực hiện thanh toán tiền
công, tiền lương, tiền thưởng bằng kênh thanh
toán tiền mặt gây khó khăn cho cơ quan thuế
trong việc kiểm soát thu nhập chịu thuế TNCN.
Thứ hai, bất cập trong quá trình quản lý
thuế TNCN
Theo Đặng Thị Cát Tường (2023), việc
thực hiện các quy định của pháp luật thuế thu
nhập cá nhân đối với người lao động hành
nghề tự do như giảng dạy, bác sỹ khám bệnh
ngoài giờ, luật sư, môi giới, ... chưa được cơ
quan thuế quản lý đầy đủ. Theo quy định của
pháp luật, đối với các khoản thu nhập này thì
phải kê khai để tính tổng thu nhập, từ đó xác
định mức thuế thu nhập phải nộp, nhưng
trong thực tế các đối tượng này chưa nhận
thức đầy đủ về nghĩa vụ đăng ký, kê khai và
nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật
đăng ký, chưa tự giác kê khai và nộp thuế thu
nhập cá nhân. Cục Thuế Nghệ An chưa thực
hiện giám sát các hoạt động này một cách chặt
chẽ, chỉ chờ việc tự giác khấu trừ thuế của các
tổ chức chi trả thu nhập cũng như tự kê khai
của cá nhân. Từ đó, số thuế thu được trong
thời gian qua vẫn chưa đủ, dẫn đến thất thu
thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh đó, ngoài
việc rất nhiều đối tượng phải nộp thuế bị bỏ
sót thì ngay cả trong những người nộp thuế
thu nhập cũng chưa khai báo trung thực số thu
nhập thực tế mà họ nhận được. Bằng nhiều
cách khác nhau, người nộp thuế thu nhập cá
nhân tìm cách khai báo giảm thu nhập trong
khi cơ quan thuế vẫn còn lúng túng trong việc
thẩm tra mức độ chính xác của việc kê khai.
Đối với các cá nhân làm việc trong các đơn vị
sản xuất kinh doanh có đăng ký kê khai nộp
thuế TNCN cho lao động của cơ sở mình, thì
cơ quan thuế cũng chưa kiểm tra được mà chủ
yếu vẫn dựa vào kê khai của tổ chức chi trả
thu nhập. Điều này tạo nên sự mất công bằng
trong nghĩa vụ nộp thuế TNCN.
Đối với việc miễn thuế TNCN, đây là
quyền của cá nhân được thụ hưởng nếu thuộc
các trường hợp được miễn Thuế TNCN theo
quy định của Luật TNCN. Tuy nhiên, trên
thực tế công tác phổ biến những nội dung này
của cơ quan thuế tại một số địa phương vẫn
chưa được thực hiện tốt. Điển hình là vấn đề
miễn thuế TNCN từ chuyển nhượng bất động
sản khi có duy nhất một bất động sản. Tại một
số địa phương, vì cá nhân không biết đến quy
định này thậm chí cán bộ của văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất cũng mặc định việc nộp
thuế TNCN là không có trường hợp nào ngoại
lệ nên mặc dù chỉ có duy nhất một bất động
sản khi chuyển nhượng nhưng vẫn phải nộp
thuế TNCN do không kê khai miễn thuế, từ
đó không được cán bộ chi cục thuế hướng dẫn
cam kết chỉ có duy nhất một bất động sản.

