
Xử lý nợ quá hạn có tài sản đảm bảo tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
1. Th
ực tiễn xử lý nợ quá hạn
Là một trung gian tài chính nên rủi ro trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng là điều không tránh
khỏi. Đặc biệt, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế
thị trường thì rủi ro trong cho vay lại càng cao. Nhận thức rõ điều
này nên vào những năm 90 việc cấp tín dụng của các ngân hàng
thương mại (NHTM) phần lớn đều phải có tài sản thế chấp.
Nhưng loại tài sản được thế chấp lại gần như chỉ áp dụng cho
nhà ở và đất đai. Vì vậy, khi mà khối tài sản thế chấp kia lên đến
hàng ngàn tỉ đồng (tháng 12.1998) thì đã làm “đóng băng” n
ợ quá
hạn tại các NHTM (80% trong tổng dư nợ quá hạn có tài sản thế

chấp). Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề xử lý các loại tài sản
thế chấp đó trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn.
Tính đến cuối năm 2000, nợ quá hạn cho vay của các NHTM tr
ên
địa bàn TP.HCM là 11.606 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 22,24% trên tổng
dư nợ. Trong đó, nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo là 8.573 tỉ
đồng, chiếm 73,87% trong tổng số nợ quá hạn. Điều này làm cho
tình hình tài chính của các NHTM ngày càng khó khăn do nợ
không có nguồn thu hồi lại phải ôm giữ một khối tài sản khổng lồ
mà giá trị cứ giảm dần theo thời gian. Vốn không thu hồi được,
trong khi ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ các khoản l
ãi huy
động từ dân cư và các nguồn khác, vẫn phải chi các hoạt động
quản lý, tiền lương,…Đặc biệt, ngân hàng còn phải thêm một
khoản chi phí cho việc trông coi, quản lý, bảo quản,… các tài sản
đó, chưa kể nếu tài sản đó liên quan đến các vụ án th
ì ngân hàng

còn phải mất thêm thời gian, sức lực để theo đuổi. Yêu cầu bức
thiết trước mắt là phải xử lý một cách hiệu quả khối tài sản thế
chấp kia để đủ sức cạnh tranh khi hội nhập. Do vậy, các NHTM
đã nỗ lực tìm mọi biện pháp như ngân hàng tự bán, phối hợp với
khách hàng hoặc khách hàng tự tìm người bán,…Tuy nhiên, quá
trình xử lý nợ tồn đọng này chậm và hiệu quả chưa cao, đặc biệt
là việc tổ chức phát mãi tài sản thế chấp, tài sản được giao từ
các vụ án tiến hành rất chậm, thậm chí dậm chân tại chỗ. Do đó,
việc giảm tỉ lệ nợ quá hạn và nợ xấu tại các NHTM dù hết sức cố
gắng vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra (dưới 5%).
2. Những khó khăn khi xử lý những khoản nợ quá hạn có tài
sản đảm bảo
Như chúng ta đã thấy, vấn đề xử lý nợ quá hạn để lành mạnh

hóa tình hình tài chính của các NHTM hiện nay là một vấn đề khá
bức xúc, tốc độ xử lý chậm, hiệu quả không cao, trong khi thời
gian hội nhập ngày càng rút ngắn. Không phải vì Ngân hàng
không khẩn trương xử lý mà chính vì trong xử lý còn quá nhiều
vướng mắc, bất cập, chẳng hạn như :
- Trong tổng số nợ xấu của các NHTM quốc doanh có đến 60% l
à
nợ không trả được của các doanh nghiệp nhà nước. Các khoản
nợ này đã được thẩm tra và nếu xác định do nguyên nhân bất
khả kháng thì được Nhà nước cho khoanh hoặc xóa nợ. Do ch
ưa
có nguồn thu nên dù đã đưa ra khỏi dư nợ tín dụng, nhưng các
NHTM vẫn hạch toán ở khoản nợ phải thu và vẫn là tài sản có
của NHTM. Hoặc những khoản nợ quá hạn đã được xét cho tạm
khoanh nhưng vẫn còn hạch toán ở tài khoản nợ quá hạn và như
vậy vẫn còn nằm trong dư nợ tín dụng. Có thể nói rằng đây là số

tài sản không có thực nhưng NHTM phải theo dõi, phải hạch toán
vào trong bảng cân đối trong suốt mấy năm cho đến khi nào có
nguồn xử lý.
- Còn đối với số nợ có tài sản bảo đảm, cụ thể là tài s
ản thế chấp,
thì một khối lượng lớn tài sản thế chấp liên quan đến các vụ án
vẫn chưa được xử lý, hoặc đã xử lý nhưng tiến tr
ình bàn giao quá
chậm nên dẫn đến tình trạng tài sản hư hỏng, xuống cấp. Nếu
ngân hàng muốn bán, khai thác hoặc cho thuê buộc phải sửa
chữa, đầu tư thêm. Điều này làm cho chi phí hoạt động của ngân
hàng tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài sản này chưa
chắc đã thu đủ nợ gốc. Mặt khác, các tài sản này có khi do
vướng mắc về hồ sơ, thủ tục,…nên giá bán thực tế đôi khi thấp
hơn dự kiến.

