
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
181
XUẤT KHẨU TƯ BẢN
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Nguyễn Thị Phương Mai
Đại học Thủy lợi, email: ntpmai@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay,
xuất khẩu tư bản (XKTB) là xu thế tất yếu
của các nước trên thế giới. Nếu như trước
đây, XKTB chỉ được thực hiện bởi các nước
có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực tài
chính mạnh, có khoa học công nghệ hiện đại,
có trình độ quản lý tiên tiến thì ngày nay,
ngay cả đối với các nước có nền kinh tế đang
và kém phát triển dòng vốn đầu tư ra bên
ngoài cũng đã phát triển một cách mạnh mẽ.
Sự tham gia của các nước này đã làm phong
phú, đa dạng thêm môi trường hoạt động đầu
tư quốc tế. Ở một nước vừa có thể có những
luồng vốn di chuyển ra bên ngoài đồng thời
lại có các luồng vốn khác di chuyển vào
trong nước. Sự di chuyển mạnh mẽ các luồng
vốn đầu tư đã có những tác động rất lớn tới
các nước nói riêng, nền kinh tế thế giới nói
chung. Việt Nam không nằm ngoài xu thế
chung đó.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Xuất khẩu tư bản – một đặc điểm
kinh tế cơ bản của CNTBĐQ
- Bản chất của xuất khẩu tư bản
XKTB là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài
(đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích
bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác
ở các nước nhập khẩu tư bản. XKTB được
coi là quá trình ăn bám bình phương.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
XKTB đã trở thành phổ biến.
- XKTB thực hiện dưới nhiều hình thức.
Nếu xét cách thức đầu tư thì XKTB gồm
XKTB trực tiếp (đầu tư trực tiếp - FDI) và
XKTB gián tiếp (đầu tư gián tiếp· FPI).
Nếu xét theo chủ sở hữu, có XKTB tư
nhân và XKTB nhà nước.
Nếu xét về cách thức hoạt động, có các chi
nhánh của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs); hoạt động tài chính tín dụng của các
ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và
chuyển giao công nghệ,
- Ngày nay, XKTB có những sự biến đổi:
Thứ nhất, chiều hướng XKTB thay đổi.
Thứ hai, chủ thể XKTB có sự thay đổi lớn,
vai trò của TNCs ngày càng lớn.
Thứ ba, hình thức XKTB đa dạng, có sự
đan xen giữa XKTB và XKHH tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính thực dân trong
XKTB đã được gỡ bỏ dần và thay vào đó là
nguyên tắc hai bên cùng có lợi.
Nguyên nhân của những biến đổi này
không phải chỉ là do sự ‘thừa’ và ‘thiếu’ vốn
như trước đây mà là do những quá trình kinh
tế diễn ra trên toàn thế giới do cách mạng
KH&CN mang lại.
3.2. Tác động của XKTB trong quá
trình hội nhập quốc tế
a) Tác động hai mặt của XKTB đối với
nước đầu tư tư bản
Một mặt, XKTB về thực chất là hình thức
mở rộng QHSX TBCN trên phạm vi quốc tế,

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
182
là sự bành trướng thế lực của tư bản tài chính
nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới,
Mặt khác: Đầu tư FPI có thể dẫn tới tình
trạng “kinh tế bong bóng xà phòng’, đẩy mức
độ tiêu dùng lên quá cao so với khả năng
kinh tế trong nước, làm gia tăng sự phụ thuộc
vào các nhân tố bên ngoài.
b) Tác động của XKTB đối với nước
nhập khẩu tư bản
- Tác động tích cực
+ Là nguồn cung cấp có hiệu quả về vốn,
công nghệ, năng lực quản lý
+ Giúp nền kinh tế trong nước tăng năng
suất, tăng sức cạnh tranh, thu nhập quốc dân,
tiếp cận thị trường nước ngoài thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH.
- Tác động tiêu cực
Nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ
thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá
nặng nề.
c) Tác động của XKTB đối với sự phát
triển của nền kinh tế thế giới
- Tác động tích cực
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển LLSX,
Thứ hai, góp phần ngăn chặn sự gia tăng
của chính sách bảo hộ mậu dịch bằng các
biện pháp thuế quan;
Thứ ba, thúc đẩy quá trình quốc tế SX, làm
xuất hiện lợi thế so sánh trong thương mại
quốc tế của các nước trên thị trường quốc tế,
thúc đẩy sự PCLĐ quốc tế;
Thứ tư, góp phần xoa dịu mâu thuẫn, góp
phần giải quyết bất đồng trên cơ sở nguyên
tắc đa phương.
Thứ năm, tạo cơ hội rút ngắn khoảng cách
về trình độ phát triển giữa các nước.
- Tác động tiêu cực
Thứ nhất, việc tự do di chuyển vốn đầu tư,
có thể tạo ra sự mất ổn định tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, sự ô nhiễm môi trường do CGCN
giữa các nước.
Thứ ba, có thể làm nảy sinh các mâu thuẫn
mới trong nền kinh tế thế giới.
3.3. Một số gợi mở về quá trình hợp tác
đầu tư quốc tế của Việt Nam
Cũng như các nước đang phát triển khác,
Việt Nam thiếu vốn, thị trường, công nghệ và
những kinh nghiệm trong quản lý để xây
dựng và phát triển kinh tế.
Với việc thực hiện chính sách khuyến
khích đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI đã
tạo việc làm cho nhiều lao động, tăng GDP
và kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam đã và
đang tiến hành từng bước hội nhập nền kinh
tế khu vực và thế giới.
Bối cảnh tự do hoá thương mại và toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới tạo nhiều cơ hội cho
Việt Nam phát triển.
- Những cơ hội
Việc tham gia WTO, làm vị thế Việt Nam
tăng lên trên trường quốc tế; có điều kiện chủ
động tham gia chính sách thương mại toàn
cầu; đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh
hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp xu thế
chung, thu hút các nhà đầu tư trong nước và
ngoài nước...
Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình
đẳng tham gia thị trường toàn cầu để phát
triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và
hàng hóa, dịch vụ sẽ không bị phân biệt đối
xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được
hưởng những ưu đãi dành cho thành viên
WTO. Như vậy cơ hội XKTB, cơ hội nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư sẽ được mở
rộng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở
rộng thị trường tiêu thụ, xâm nhập thị trường
nước ngoài bằng cách thành lập các chi nhánh
ở nước ngoài thông qua các hình thức như
doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp
100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành
công và lớn mạnh của các công ty xuyên quốc
gia trên thế giới. Như vậy, XKTB trở thành
hoạt động kinh tế hữu ích giúp cho các doanh
nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo thế
vững chắc và bổ sung cho sự phát triển của
các chi nhánh và công ty mẹ ở trong nước.
Doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện khai
thác các nguồn lực sản xuất của nước ngoài

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
183
để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của
nước mình. Thực tế cho thấy rằng, mỗi quốc
gia đều có những nguồn lực sản xuất nhất
định và tổng nguồn lực là hữu hạn. Đây chính
là một nguyên nhân cơ bản khiến cho doanh
nghiệp của quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở
quốc gia khác nhằm khai thác nguồn lực của
nước đó để phát triển..
Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện
tiếp xúc trực tiếp với các thị trường quốc tế
về vốn, máy móc thiết bị, KHCN, từ đó có
điều kiện tiếp thu công nghệ mới, hiện đại
hơn, có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam
có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý -
tiên tiến, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý
sản xuất, nâng cao hiểu biết về luật pháp và ý
thức chấp hành luật pháp, nâng cao khả năng
cạnh tranh công bằng trên trường quốc tế và
cả ở trong nước.
Để có thể tận dụng được các cơ hội, chúng
ta phải chủ động, tích cực hội nhập để nền
kinh tế nước ta gắn kết ngày càng mạnh hơn,
dần trở thành một thực thể hữu cơ của kinh tế
khu vực và kinh tế thế giới.
- Những thách thức.
Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt Nam
cũng phải mở cửa thị trường nội địa cho các
nước. Đây là thách thức lớn cho các doanh
nghiệp trong nước bởi mặc dù cả nước đang
có số lượng doanh nghiệp lớn (hơn 230.000
doanh nghiệp), nhưng phần lớn là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh kém
nên các doanh nghiệp Việt có thể sẽ thua
ngay trên sân nhà.
Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh
giành nguồn lực con người sẽ diễn ra khốc
liệt. Thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp
trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ
chế phù hợp để giữ lao động.
Do tiềm lực tài chính của đại đa số các
doanh nghiệp Việt Nam còn yếu làm lượng
vốn XKTB của các doanh nghiệp Việt Nam
chưa cao, nên sức cạnh tranh của các dự án
này thấp.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu
kinh nghiệm XKTB.
Mức độ áp dụng công nghệ tiên tiến của
DN vào sản xuất chưa cao, hệ thống đại lý
phân phối sản phẩm mỏng, chưa tạo dựng
được thương hiệu có danh tiếng…. Năng lực
cạnh tranh thấp khiến cho hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp Vịêt Nam cả trong
và ngoài nước chưa cao.
Cơ chế chính sách khuyến khích XKTB
của Việt Nam chưa được quan tâm đúng
mức, hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ
mô đến hoạt động XKTB chưa cao.
4. KẾT LUẬN
XKTB (đầu tư quốc tế) là xu thế tất yếu
ngày nay đối với tất cả các nước. Dù chiều
hướng của XKTB có biến đổi, dù XKTB vẫn
là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu
dùng để bóc lột các nước nghèo, vẫn là một
chính sách của CNTBĐQ, nhưng XKTB
cũng đã thể hiện xu hướng và trở thành hình
thức hợp tác đầu tư cùng có lợi trong mối
quan hệ quốc tế. XKTB mang đến nhiều cơ
hội nhưng cũng không ít thách thức cho các
nước. Để phát huy được những tác động tích
cực, hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư
quốc tế, các nước trong đó có Việt Nam cần
nhận diện được những cơ hội và thách thức
trong quá trình mở rộng đầu tư quốc tế. Bên
cạnh vai trò quản lý của nhà nước ở các nước
nhập khẩu tư bản. cần phải biết vận dụng
mềm dẻo, linh hoạt, nguyên tắc cùng có lợi,
lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác
nguồn lực quốc tế có hiệu quả, lợi dụng mặt
tích cực của XKTB để đẩy mạnh quá trình
CNH, HĐH./.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chủ nghĩa tư bản hiện đại, Những điều
chỉnh mới, 2006. Viện thông tin khoa học
xã hội.
[2] Đặc điểm và những vấn đề nổi bật của chủ
nghĩa tư bản hiện đại, 2009. Thông tin lý
luận chính trị.
[3] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin,
năm 2006. NXB CTQG.
[4] Holger Rogall, 2011. Kinh tế học bền vững,
NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ.

