
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Ủy ban BASEL về giám sát hoạt động ngân hàng đã
thông qua Hiệp ước BASEL cho phép đo lường mức vốn cần thiết – hay tỷ lệ an toàn vốn CAR
cho thấy sức chống chịu với rủi ro của các NH. Nghiên cứu chuẩn mực quốc tế, NHNN VN đã
ban hành nhiều QĐ nhằm điều chỉnh CAR của các NHTM tại Việt Nam, bắt đầu từ năm 1999 với
Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999. Trước những khó khăn của hệ thống
NHTM trước 2010 như tăng trưởng nóng, nợ xấu, thiếu hụt thanh khoản, sở hữu chéo, CAR
không đảm bảo, Chính phủ phê duyệt Đề án
254/QĐ-TTg
Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai
đoạn 2011-2015. Tiếp sau đó, để xử lý các vấn đề của các NHTM cho giai đoạn 2016 – 2020,
Chính phủ tiếp tục phê duyệt Đề án 1058/QĐ-TTg với mục tiêu chính là xử lý triệt để nợ xấu tại
các NHTM. Theo các đề án, một loạt các biện pháp của NHNN và Chính Phủ được đưa ra để cải
thiện CAR và tiệm cận với BASEL II. Tuy nhiên, trong tương lai, Chính Phủ cũng như NHNN có
thể sẽ có những chính sách tái cơ cấu hệ thống NHTM để ngày càng nhiều NHTM VN đáp ứng
chuẩn mực quốc tế BASEL III, hướng tới vươn ra toàn cầu. Vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố
tác động đến CAR trong bối cảnh tái cơ cấu hệ thống NHTM trở nên cần thiết, nhằm xác định các
yếu tố và mức độ tác động đến tỷ lệ CAR cũng như đưa ra những đề xuất khuyến nghị phù hợp
với các NHTM, NHNN và Chính Phủ.
Về học thuật, đã có rất nhiều nghiên cứu đánh giá các yếu tố tác động đến CAR. Các
nghiên cứu được thực hiện tại nhiều quốc gia khác nhau với môi trường kinh tế khác nhau, chủ
yếu tại các quốc gia phát triển, nơi các yếu tố vĩ mô và vi mô chủ yếu chịu sự điều tiết của thị
trường. Phải nói rằng hệ thống NHTM Việt Nam chịu nhiều tác động của các cơ chế chính sách
điều chỉnh của Chính phủ và NHNN. Việc đưa yếu tố tái cơ cấu hệ thống NHTM vào nghiên cứu
các yếu tố tác động đến CAR có thể đưa đến cái nhìn tổng quan khi có tái cơ cấu thì các yếu tố
tác động thay đổi như nào và từ đó việc tác động đến CAR thay đổi ra sao. Từ nghiên cứu đó có
thế áp dụng đến khuyến nghị chính sách trong thực tiễn để đảm bảo các chính sách tái cơ cấu tác
động hiệu quả đến hoạt động an toàn vốn của các ngân hàng.
Trước yêu cầu về học thuật và thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài “Các yếu tố tác động
đến tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh cơ cấu lại hệ thống các
NHTM Việt Nam” với mục tiêu nghiên cứu và đo lường tác động của các yếu tố vĩ mô và vi mô
có thể ảnh hưởng đến CAR của các NHTM trong bối cảnh tái cơ cấu hệ thống NHTM, và từ đó
đề xuất những khuyến nghị về chính sách để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn của các NH.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nghiên cứu và đo lường tác động của các yếu tố vĩ mô
và vi mô đến CAR của các NHTMVN trong bối cảnh tái cơ cấu hệ thống NHTM, từ đó đưa ra
các đề xuất giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm cải thiện CAR của các NH.
Câu hỏi nghiên cứu
2
Các yếu tố nào tác động đến CAR? Mức độ và chiều tác động của các yếu tố đến CAR
trên cơ sở lý luận và thực nghiệm như thế nào? Tỷ lệ CAR tại các NHTM VN chịu tác động bởi
các yếu tố nào? Cần có những đề xuất khuyến nghị gì đối với các NHTM, NHNN và Chính Phủ
để nâng cao chất lượng CAR?.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là CAR và các yếu tố tác động đến CAR tại các NHTM
trong hệ thống NHTM VN.
Phạm vi nghiên cứu
− Về thời gian nghiên cứu : Từ năm 2006 đến 2020
− Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 35 NHTM Việt Nam (tính
đến thời điểm 12/2020). Trong đó có 4 NHTMNN.
− Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến CAR của
các NHTM VN.
4. Phương pháp nghiên cứu
− Dữ liệu nghiên cứu:
Đối với dữ liệu CAR: Dữ liệu của biến CAR được thu thập từ việc tự tính toán và báo cáo
của các NHTM. Dữ liệu về các yếu tố đặc trưng của NHTM được thu thập từ các BCTC của các
NH trong giai đoạn từ 2006 đến 2020 hoặc được tác giả tự tính toán dựa vào các số liệu có được
từ các BCTC. Dữ liệu về các yếu tố vĩ mô của Việt Nam là số liệu thứ cấp từ các nguồn World
Bank, ADB bao gồm tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực và tăng trưởng GDP hàng năm trong giai đoạn
2006 – 2020.
− Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu : (1) Phương
pháp nghiên cứu tại bàn; (2) Phương pháp phân tích thống kê; (3) Phương pháp mô hình hóa
5. Những đóng góp của luận án
Từ các kết quả nghiên cứu, luận án đã có những đóng góp như sau: (1) Bổ sung thêm
nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về các yếu tố tác động đến CAR giai đoạn 2006 – 2020. (2)
Đưa yếu tố tác động là biến đặc trưng cho hai giai đoạn tái cơ cấu hệ thống NHTM tại Việt Nam
(giai đoạn 1 từ 2010 – 2015 là thời gian áp dụng Quyết định 254/QĐ-TTg và giai đoạn 2 từ 2016
– 2020 là thời gian áp dụng Quyết định 1058/QĐ-TTg) vào mô hình. (3) Bổ sung thêm yếu tố tác
động đển CAR là Tài sản đầu tư Chứng khoán dài hạn và Tài sản đầu tư Chứng khoán ngắn hạn,
là những biến đại diện cho rủi ro thị trường. (4) Bổ sung thêm yếu tố về tác động của việc mua
bán sáp nhập ngân hàng đối với CAR. (5) Nghiên cứu cũng đóng góp về mặt đề xuất giải pháp và
khuyến nghị chính sách đối với các NHTM, NHNN và Chính Phủ nhằm cải thiện CAR trong giai
đoạn tới để các NHTM tiến dần đến BASEL III
6. Bố cục của luận án
Luận án sẽ có phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung của luận án
sẽ bao gồm các chương sau:

3
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về tỷ lệ an toàn vốn và các yếu tố tác động đến
tỷ lệ an toàn vốn
Chương 2: Thực trạng tỷ lệ an toàn vốn tại các NHTM Việt Nam và các yếu tố tác động đến tỷ lệ
an toàn vốn của các NHTM VN
Chương 3 : Kiểm định các yếu tố tác động đến tỷ lệ an toàn vốn trong bối cảnh tái cơ cấu
Chương 4 : Một số giải pháp và khuyến nghị về các yếu tố tác động đến tỷ lệ an toàn vốn
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TỶ LỆ AN TOÀN
VỐN VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ LỆ AN TOÀN VỐN
1.1. Hệ thống NHTM
Tại Việt Nam, theo Luật Tổ chức tín dụng 2010, “Ngân hàng thương mại là loại hình
ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo
quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.”. Luật TCTD 2010 cũng quy định các hoạt động
ngân hàng bao gồm: “nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
NHTM có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, thể hiện ở những khía cạnh sau: (1) NHTM giữ
vai trò cấp vốn cho nền kinh tế; (2) NHTM giữ vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường;
(3) NHTM là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước; (4) NHTM giữ vai trò cầu nối giữa
nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế, thông qua các hoạt động thanh toán quốc tế,
nghiệp vụ ngoại hối.
1.2. Tổng quan về CAR
1.2.1. Khái niệm và cách đo lường theo BASEL
1.2.1.1. BASEL I
BASEL I xây dựng công thức tính CAR như sau :
ỷệàố = ốấ + ốấ + ốấ
àảíủ !ề($%&) >= 8%
Năm 1993, bản Đề xuất tiếp theo (Consecultive Proposal) đã đưa ra phân loại rủi ro và
cách tính toán các loại rủi ro căn cứ vào tài sản hay nguồn vốn. Đề xuất tiếp theo (Consecultive
Proposal) 1993 và Đề xuất (Proposal) 1995 và Sửa đổi (Amendment) 1996 cũng để cập đến hai
cách để tính toán vốn tối thiểu cần thiết cho một portfolio các tài sản mà ngân hàng sở hữu bao
gồm : Tiếp cận chuẩn hóa (Standardized Approach), hoặc Mô hình nội bộ (Internal Models)
1.2.1.2. BASEL II
a. Pilar 1 (Trụ cột thứ nhất)
Trụ cột thứ nhất vẫn giữ nguyên các khái niệm về vốn như BASEL I. Tỷ lệ vốn bắt buộc
tối thiểu (Minimum Capital Requirements – MCR) vẫn là 8%. Hệ số rủi ro của tài sản được quy
định từ 0% đến 150% và có sự phân định rõ chi tiết hơn từng loại tài sản.
+ỷ,ệ-ố. = /ố.0ấ11 + /ố.0ấ12 + /ố.0ấ13
(5ứ0-ố.7ố87ℎ8ể;<ùđắ1@ủ8@A7ℎị7@ườ.E-à@ủ8@A7á0.Eℎ8ệ1G12,5)+ JKL
b. Pilar 2 (Trụ cột thứ hai)
Trụ cột thứ hai liên quan đến hai nội dung chinh : (1) Ngân hàng phải có hệ thống nội bộ
và mô hình đánh giá vốn tối thiểu của ngân hàng phù hợp với danh mục và tỷ trọng rủi ro của
4
ngân hàng. (2) Ngân hàng cũng cần có cơ chế đánh giá xem việc xác định mô hình đánh giá tính
toán tỷ lệ vốn tối thiểu bù đắp rủi ro có chính xác hay không
c. Pilar 3 (Trụ cột thứ ba)
Theo trụ cột này, ngân hàng nên xây dựng báo cáo dễ hiểu dựa trên hệ thống quản trị rủi
ro của mình và theo cách mà BASEL tư vấn, và được công bố minh bạch trên thị trường.
1.2.1.3. BASEL III
a. Về khái niệm vốn ngân hàng và tỷ lệ vốn tối thiểu
BASEL III vẫn quy định tỷ lệ vốn tối thiểu >=8% nhưng yêu cầu nâng cao chất lượng
vốn. BASEL III trước hết đã khái niệm lại về Vốn bắt buộc của ngân hàng bao gồm Vốn cấp 1
(Vốn CSH thông thường và Vốn cấp 1 bổ sung) và Vốn cấp 2 (bỏ đi khái niệm của Vốn cấp 3)
cùng với tỷ lệ tối thiểu đối với Vốn đệm dự phòng là 2.5% và Vốn dự phòng tổn thất hệ thống là
từ 0 - 2.5% nâng tỷ lệ vốn tối thiểu lên 10.5%.
b. Về việc bảo đảm rủi ro
BASEL III đề cập đến việc ngân hàng nào được phép sử dụng IMM sẽ xác định tổn thất,
sử dụng số liệu trên thị trường và dựa vào Effective EPE model, và có quan tâm đến đo lường
stress (stress evaluation). Bên cạnh đó, BASEL III cũng đề cập đến việc ngân hàng chỉ nên sử
dụng kết quả đánh giá xếp hạng của các tổ chức có uy tín được Ủy ban khuyến nghị.
1.2.2. Vai trò của CAR đối với NHTM và hệ thống NHTM
CAR được sử dụng như một chỉ tiêu đánh giá mức độ chống chịu rủi ro (Al-Sabbagh,
2004), hay một chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và ổn định của các ngân hàng khi nguồn vốn
được ví như lá chắn hay tấm đệm đối phó với thiệt hại (Abdel-Karim, 2004).
1.3.Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về các yếu tố tác động đến CAR
1.3.1. Các yếu tố vĩ mô
1.3.1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP
Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế có thể có tác động nghịch chiều đến CAR trong hệ
thống ngân hàng. Theo Ruckes (2004), trong môi trường kinh tế thuận lợi, các ngân hàng có xu
hướng giảm các điều kiện thẩm định để thu hút khách hàng, và từ đó có thể làm tăng nguy cơ rủi
ro của tài sản, từ đó CAR sẽ giảm, và ngược lại. Nghiên cứu của Harly (2011), Siti Norbaya
Yahaya và cộng sự (2016), Juca và cộng sự (2012) hay Abhay Pant và Ganesh Kumar Nidugala
(2017), Đỗ Hoài Linh và cộng sự (2019) đã cho kết quả các ngân hàng thường giữ tỷ lệ vốn an
toàn thấp hơn trong bối cảnh nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Ở Việt Nam, nghiên cứu của
Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành (2016) cho thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê
giữa CAR và tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
1.3.1.2. Lạm phát
Lạm phát là một trong những yếu tố vĩ mô phản ánh môi trường kinh tế. Harly (2011)
hay Ojo J. A. & Adegbite (2010) cho rằng trong các yếu tố vĩ mô thì lạm phát có vai trò quan
trọng tác động nghịch chiều đến CAR khi làm “xói mòn” vốn của ngân hàng, và đồng thời tài sản
rủi ro cũng tăng khiến CAR Nghiên cứu của Siti Norbaya Yahaya và cộng sự (2016), Abhay Pant
và Ganesh Kumar Nidugala (2017), Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành (2016) cho kết quả quan hệ

5
nghịch chiều giữa lạm phát và CAR. Trong khi đó, trong giai đoạn lạm phát tăng cao, có thể ngân
hàng sẽ giữ nhiều vốn để phòng ngừa rủi ro hoặc giảm tài sản rủi ro khiến CAR tăng.
1.3.1.3. Lãi suất
Theo Demirguc-Kunt và Detragiache (1998), lãi suất cao tác động nghịch chiều đến hoạt
động kinh doanh, lợi nhuận và sự phát triển của người đi vay, có thể đẫn đến khả năng mất thanh
khoản của người đi vay, từ đó làm gia tăng tài sản rủi ro và tác động nghịch chiều đển CAR. Còn
theo Harly Tega (2011), việc lãi suất thực tăng cho thấy chi phí vốn tăng dẫn đến việc CAR có
thể sụt giảm tương ứng. Nghiên cứu tại Việt Nam của Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành (2016)
cho thấy nếu đặt trong mô hình chỉ có các biến vĩ mô thì lãi suất không có mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê với CAR, nhưng khi đặt trong mô hình kết hợp cả các yếu tố đặc trưng của ngân
hàng và các yếu tố vĩ mô thì lãi suất có quan hệ nghịch chiều với CAR. Nghiên cứu của Đỗ Hoài
Linh và cộng sự (2019) cũng cho kết quả về tác động nghịch chiều của lãi suất lên CAR.
1.3.2. Các yếu tố đặc trưng cho NHTM
1.3.2.1. Quy mô của từng ngân hàng
Nghiên cứu của Demsetz và Strahan (1997) đã chỉ ra rằng các ngân hàng lớn có cơ hội tạo
được mức độ đa dạng hóa tốt hơn nên duy trì CAR thấp hơn so với ngân hàng nhỏ. Nghiên cứu
của Reynolds và cộng sự (2000), nghiên cứu của Mehdi Mili và cộng sự (2014) cũng tỉm ra mối
quan hệ nghịch chiều giữa quy mô ngân hàng nước ngoài với CAR. Trong khi đó, nghiên cứu của
Gropp và Heider (2009), Juca và cộng sự (2012) cho thấy quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn an toàn
có mối quan hệ thuận chiều. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành
(2016), Võ Hồng Đức và cộng sự (2014) cho thấy quy mô tăng trưởng có quan hệ nghịch chiều
với CAR. Trong khi đó, nghiên cứu của Lê Thanh Ngọc và cộng sự (2015) đã đưa ra kết quả về
mối quan hệ thuận chiều. Còn nghiên cứu của Phạm Xuân Thoa cùng cộng sự (2017), cũng như
nghiên cứu của Trần Đức Minh và Lữ Phi Nga (2018) không tìm thấy tác động có ý nghĩa thống
kê của quy mô tài sản đến CAR.
1.3.2.2. Tỷ lệ tiền gửi
Nghiên cứu của Kleff và Weiber (2008) chỉ ra tác động thuận chiều giữa tỷ lệ tiền gửi và
CAR. Trong khi đó, nghiên cứu của Asarkaya và Ozcan (2007) lại cho kết quả nghịch chiều giữa
tỷ lệ tiền gửi và CAR. Nghiên cứu của Alfon và cộng sự (2004) cho kết quả mối quan hệ thuận
chiều đối với các ngân hàng đã trải qua việc tăng CAR pháp định và mối quan hệ nghịch chiều
đối với ngân hàng đã trải qua việc giảm CAR pháp định. Cũng có kết quả phức tạp, kết quả
nghiên cứu của Siti Norbaya Yahaya và cộng sự (2016) đã cho thấy tổng tiền gửi tác động thuận
chiều trong khi tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản lại có tác động ngược chiều đối với CAR. Tại Việt
Nam, cùng kết quả về tác động nghịch chiều của Tỷ lệ tiền gửi đến CAR là nhóm tác giả Võ
Hồng Đức và công sự (2014), nghiên cứu của Lê Thanh Ngọc và cộng sự (2015) và nghiên cứu
của Trần Đức Minh và Lữ Phi Nga (2018). Trong khi đó, nghiên cứu của Đỗ Hoài Linh và cộng
sự (2019) lại cho kết quả về mối quan hệ thuận chiều.
6
1.3.2.3. Tỷ lệ cho vay
Nghiên cứu của Mpuga (2002), nghiên cứu của Mehdi Mili và các cộng sự (2014) chỉ ra
mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ cho vay với CAR. Nghiên cứu của Siti Norbaya Yahaya và
cộng sự (2016) không sử dụng tỷ lệ cho vay mà nghiên cứu trên tổng cho vay thì được kết quả
mối quan hệ nghịch chiều. Tại Việt Nam, nghiên cứu của nhóm tác giả Võ Hồng Đức và cộng sự
(2014), Trần Đức Minh và Lữ Phi Nga (2018) hay Đỗ Hoài Linh và cộng sự (2019) chưa tìm thấy
được bằng chứng định lượng từ tác động của tỷ lệ cho vay (LOA) đến CAR. Trong khi đó,
nghiên cứu của Phạm Thị Xuân Thoa và Nguyễn Ngọc Anh (2017) cho thấy Tỷ lệ cho vay tác
động nghịch chiều đến CAR.
1.3.2.4. Khả năng sinh lời
Các nghiên cứu ủng hộ cho mối quan hệ thuận chiều giữa khả năng sinh lời và CAR có
thể kể đến nghiên cứu của Gropp và Heider (2009), Brown và cộng sự (2010) hay nghiên cứu của
Admet và Hasan (2011). Gropp và Heider (2009) cho rằng các ngân hàng có khả năng sinh lời
cao dễ dàng tăng nguồn vốn với chi phí thấp hơn nên duy trì CAR thấp hơn. Còn theo Brown và
cộng sự (2010), các ngân hàng có khả năng sinh lời cao hơn có nhiều cơ hội phát triển hơn
thường duy trì CAR thấp hơn so với các ngân hàng có khả năng sinh lời thấp hơn. Có kết quả
ngược lại với Admet và Hasan (2011) là Siti Norbaya Yahaya và cộng sự (2016). Tại Việt Nam,
Nguyễn Minh Vương, Đỗ Thành Trung (2014) cũng có kết quả lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE) có tác động nghịch chiều đến CAR. Nghiên cứu của Binh, Dao Thanh (2015) cho kết quả
mối quan hệ thuận chiều với ROE và nghịch chiều với ROA. Trong khi nghiên cứu của Trần Thọ
Đạt và Tô Trung Thành (2016) lại cho thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa ROE
và CAR
1.3.2.5. CAR các năm trước
Nghiên cứu của Alfon và cộng sự (2004) sử dụng phương pháp hồi quy GMM, đã cho
thấy tỷ lệ CAR của năm trước sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ CAR của năm sau. Đồng quan điểm, nghiên
cứu của Kleff và Weiber (2008), Wong và cộng sự (2008) và Abhay Pant và Ganesh Kumar
Nidugala (2017) cũng cho thấy có quan hệ thuận chiều giữa CAR của năm trước đối với CAR
năm nay. Tại Việt nam, nghiên cứu của Lê Thanh Ngọc và cộng sự (2015) ủng hộ tác động thuận
chiều trong khi nghiên cứu của Trần Thị Lan Anh (2019) lại cho kết quả về tác động không có ý
nghĩa thống kê.
1.3.2.6. Đòn bẩy
Đòn bẩy được tính bằng tổng nợ phải trả/tổng tài sản cho thấy cơ cấu vốn của một ngân
hàng. Một số nghiên cứu cho kết quả thuận chiều giữa đòn bẩy và CAR có thể kể đến nghiên cứu
của Admet và Hasan (2011) và Shingjergji và Hyseni (2015). Trong khi đó, một số nghiên cứu
ủng hộ cho tác động nghịch chiều của tỷ lệ đòn bẩy với CAR như nghiên cứu của Aktas và cộng
sự (2015) và Shaddady và Moore (2015). Tại Việt Nam, nghiên cứu của nhóm tác giả Võ Hồng
Đức và cộng sự (2014) và nghiên cứu của Phạm Thị Xuân Thoa, Nguyễn Ngọc Anh (2017) chưa
tìm thấy được bằng chứng định lượng từ tác động của hệ số đòn bẩy đến CAR. Nghiên cửu của
Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành (2016) ủng hộ tác động nghịch chiều của tỷ lệ đòn bẩy đến

7
CAR còn nghiên cứu của Đỗ Hoài Linh và cộng sự (2019) có kết quả ước lượng về tác động
thuận chiều có ý nghĩa thống kê.
1.3.2.7. Dự phòng rủi ro tín dụng
Nghiên cứu của Admet và Hasan (2011) cho kết quả về mối quan hệ thuận chiều giữa
LLR (loan loss reserve) và CAR và được giải thích là do các ngân hàng trong tình trạng phải đối
phó với nhiều rủi ro, buộc phải trích lập dự phòng lớn sẽ khó khăn hơn trong việc giảm CAR.
Nghiên cứu của Mehdi Mili và cộng sự (2014) cũng cho thấy mỗi quan hệ thuận chiều có ý nghĩa
thống kê giữa LLR và CAR. Một số nghiên cứu tại Việt Nam có thể kể đến là nghiên cứu của
nhóm tác giả Võ Hồng Đức, Nguyễn Minh Vương, Đỗ Thành Trung (2014) đã chỉ ra rằng gia
tăng tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLR) có tác động tích cực đến CAR. Trong khi đó, nghiên
cứu của Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành (2016) và nghiên cứu của Phạm Thị Xuân Thoa và
Nguyễn Ngọc Anh (2017) đều cho kết quả tác động nghịch chiều.
1.3.2.8. Tài sản đầu tư chứng khoán
Theo khái niệm của BIS, rủi ro thị trường là những rủi ro gây ra những thiệt hại trên bảng
cân đối kế toán hay ngoại bảng của ngân hàng do sự thay đổi biến động của giá cả thị trường
(BIS, 2019). Theo đó, tài sản đầu tư chứng khoán cũng được tính là tài sản chịu rủi ro thị trường
khi lợi nhuận hay thua lỗ chịu sự chi phối của giá cả thị trường. Nghiên cứu của Aktas và cộng sự
(2015) cũng đưa biến số vĩ mô là Chỉ số biến động thị trường chứng khoán Châu Âu vào mô hình
đánh giá tác động tới CAR với lập luận rằng thời gian nghiên cứu trùng với thời điểm khủng
hoảng kinh tế khu vực Châu Âu và thời điểm này thị trường chứng khoán Châu Âu biến động
đáng kể làm gia tăng rủi ro thị trường. Do đó, ngân hàng sẽ có xu hướng gia tăng CAR để đề
phòng rủi ro.
1.3.2.9. Tỷ lệ sở hữu nhà nước
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ tập trung sở hữu, đặc biệt là sở hữu nhà nước thường
dẫn đến CAR thấp hơn. Usman Masood và Sanaullah Ansari (2016) cho rằng do cổ đông chi phối
thường muốn đầu tư mạnh hơn là giữ vốn để dự phòng, việc tập trung sở hữu tại một cổ đông chi
phối sẽ khiến việc lợi ích cổ đông được tập trung và việc quản lý điều hành được trơn tru hơn.
Theo Shehzad và cộng sự (2010) thì mức độ tập trung sở hữu làm giảm đáng kể tỷ lệ nợ xấu của
ngân hàng do tăng cường giám sát để bảo vệ lợi ích của cổ đông chi phối, và do đó cái thiện
CAR.
1.3.2.10. Việc sáp nhập của các ngân hàng
Kleff và Weiber (2008) cho rằng việc sáp nhập hai ngân hàng với những đặc điểm khác
nhau về quy mô, tình hình tài chính, phương pháp quản trị, định hướng phát triển kinh doanh... sẽ
có thể làm thay đổi toàn diện cả hai ngân hàng. Theo Hill và Jones (2001), hầu hết các thương vụ
mua bán và sáp nhập sẽ được tăng cường việc đạt mục tiêu nhanh chóng trong các hoạt động như
thiết kế sản phẩm, công nghệ, quản lý vận hành, quản trị tài chính chặt chẽ và thị phần. Nghiên
cứu Mugo (2017) đã chỉ ra số liệu thực tế cho thấy CAR đã được cải thiện sau khi sáp nhập.
Nhưng có nghiên cứu cho thấy CAR đã giảm sau khi sáp nhập: nghiên cứu của Okoye và cộng sự
8
(2016) cho rằng nếu việc sáp nhập khiến cho CAR giảm sút thì điều đó cho thấy sự kém hiệu quả
về đầu tư vào ngân hàng.
1.4.Khoảng trống nghiên cứu
Thứ nhất, tác giả đưa thêm biến đại diện cho hai giai đoạn tái cơ cấu của hệ thống NHTM
VN. Thời gian nghiên cứu do đó cũng cần dài hơn với khoảng thời gian từ 2006 – 2020 bao trùm
giai đoạn trước tái cơ cấu, giai đoạn 1 tái cơ cấu với Quyết định 254/QĐ-TTg và giai đoạn 2 với
Quyết định 1058/QĐ-TTg. Thứ hai, tác giả bổ sung thêm yếu tố đại diện cho rủi ro thị trường
trên BCTC của ngân hàng, đó là Tài sản Chứng khoản đầu tư dài hạn và Tài sản Chứng khoản
đầu tư ngắn hạn. Thứ ba, tác giả lựa chọn phương pháp kiểm định GMM để khắc phục nội sinh
của mô hình, cụ thể phương pháp kiểm định S-GMM. Thứ tư, có thể thấy thị trường Việt Nam
khá đặc thù ở chỗ các NH TMCP Nhà nước chiếm thị phần lớn trên thị trường. Hiện tại, các
nghiên cứu tại Việt Nam chưa đề cập tác động của biến đại diện cho loại hình sở hữu của NHTM,
hoặc có đưa vào mô hình kiểm định nhưng ra kết quả tác động không có ý nghĩa thống kê (Trần
Thị Vân Anh, 2020). Thứ năm, tác giả đưa vào mô hình biến mua bán sáp nhập giữa các ngân
hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ LỆ AN TOÀN VỐN TẠI CÁC NHTM VIỆT
NAM VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
2.1. Giai đoạn 2006 – 2010
2.1.1. Đặc điểm kinh tế Việt Nam
2.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
GDP của Việt Nam giai đoạn này ghi nhận việc tăng trưởng đều, không có sự sụt giảm,
mặc dù năm 2008 là giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu và cũng là năm lạm phát tăng kỷ lục
22,97%.
2.1.1.2. Lạm phát
Lạm phát năm 2006 đã giảm so với những năm 2004 (9.82%) và 2005 (8.83%) thể hiện
quyết tâm của Chính Phủ trong việc kiềm chế lạm phát, tuy nhiên lạm phát lại tăng trở lại vào
giai đoạn 2007 – 2008, lên đến đỉnh năm 2008 với tỷ lệ 22.97%.
2.1.1.3. Dư nợ tín dụng:
Tăng trưởng GDP vẫn dựa nhiều vào nguồn cung tín dụng từ ngân hàng nhưng mối quan
hệ phụ thuộc đã hài hòa hơn, thể hiện ở chỗ giai đoạn 2008 – 2010 tăng trưởng tín dụng duy trì
mức cao xấp xỉ 30% nhưng tăng trưởng GDP chỉ đạt 5-6%/năm. Quy mô tín dụng luôn lớn hơn
quy mô GDP trong suốt giai đoạn (trừ năm 2008), điều đó dẫn đến lạm phát tăng cao, đặc biệt là
năm 2007 quy mô tín dụng gấp 1.3 lần GDP dẫn đến năm 2008 lạm phát tăng đỉnh 22.97%.
2.1.1.4. Lãi suất:
Trong điều kiện tăng trưởng kinh tế và lạm phát dần tăng cao, các NHTM chạy đua lãi
suất nhằm thu hết nguồn vốn huy động để có thể đáp ứng được tăng trưởng tín dụng. Năm 2008,
trước việc nền kinh tế tăng trưởng nóng, và lạm phát tăng quá nhanh, NHNN đã buộc phải áp
dụng rất nhiều điều chỉnh chính sách lãi suất khiến các NHTM trở nên thụ động (8 lần điều chỉnh

9
các loại lãi suất điều hành (LSCB, tái cấp vốn, tái chiết khẩu), 5 lần điều chỉnh mức và lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc). Việc điều chỉnh lãi suất này đã giúp tình hình kinh tế năm 2008 được hạ
nhiệt. Năm 2009, nhằm khơi thông nguồn vốn và giải tỏa áp lực lãi suất cho vay của các NHTM,
NHNN đã ban hành các thông tư: Thông tư 01/2009/TT ngày 23/11/2009; Thông tư 07/2010/TT-
NHNN ngày 26/2/2010 và Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 cho phép lãi suất cho
vay được thỏa thuận.
2.1.1.5. Cán cân thương mại:
Xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng qua các năm, trừ năm 2009 có sự sụt giảm kim ngạch
do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Giai đoạn này cán cân thương mại duy trì tình
trạng nhập siêu với thâm hụt cán cân đỉnh điểm là vào năm 2008, đạt kỷ lục trên 14% GDP. Việc
nhập siêu duy trì cao trong 4 năm liên tiếp khiến cán cân vãng lai thâm hụt với tỷ lệ 10% so với
GDP, điều này ảnh hưởng đến an toàn cân đối vĩ mô của một quốc gia vì chỉ cần thâm hụt vãng
lai 8% so với GDP đã là một tín hiệu báo động (IMF 1996).
2.1.2. Đặc điểm hệ thống NHTM Việt Nam
2.1.2.1. Quy mô
Theo Quyết định 1557/QĐ-NHNN tháng 08/2006 phê duyệt đề án cơ cấu lại các
NHTMCP nông thôn, 12 NHTMCP nông thôn đã được chuyển đổi lên NHTMCP đô thị. Song
song với đó, Quyết định 24/2007/QĐ-NHNN cho phép thêm 3 NHTMCP mới được thành lập
dựa trên sự góp vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tuy nhiên, số lượng không đi kèm
với chất lượng, nhiều ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, tình hình tài chính không ổn định, dẫn
đến năm 2006, Chính phủ buộc phải ban hành Nghị định 141/2006/NĐ-CP yêu cầu các
NHTMCP tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3.000 tỷ đồng cuối năm 2010. Trong vòng 5 năm, tổng
tài sản của toàn hệ thống tăng tăng lên gần 6 lần. Việc yêu cầu tăng vốn điều lệ và áp lực tăng
tổng tài sản đã hình thành cơ cấu sở hữu chéo giữa các NHTM hay giữa NHTM với các TCT, tập
đoàn, khiến việc đánh giá năng lực tài chính của các NH thông qua VCSH trở nên thiếu chính
xác.
2.1.2.2. Tăng trưởng huy động vốn
Thị phần tiền gửi và thị phần tín dụng của Khối NHTM nhà nước có xu hướng giảm dần
trong khi Khối NHTMCP tăng dần theo thời gian. Tăng trưởng huy động vốn khá nhanh do lãi
suất huy động thời kỳ này khá cao, có thời điểm lãi suất huy động đạt đỉnh 12-13%. Tổng HĐV
của hệ thống đến cuối thời kỳ này khoảng 7 tỷ USD, chiếm xấp xỉ 10% GDP.
2.1.2.3. Tăng trưởng tín dụng và tỷ lệ nợ xấu
Năm 2006, tăng trưởng tín dụng chậm lại so với năm 2005 nhưng đến năm 2007 tăng
trưởng tín dụng của hệ thống đạt đỉnh ở mức 53.9% mặc dù lãi suất có xu hướng tăng, tập trung
nhiều vào cho vay lĩnh vực BĐS và CK. Các năm 2008 – 2010, tăng trưởng tín dụng đã thấp hơn
nhưng trung bình vẫn trên 30%. Việc tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tăng trưởng huy động
vốn giai đoạn này sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản cho hệ thống. Chất lượng tín dụng giai đoạn này
cũng không được đảm bảo vì chủ yếu đầu tư cho lĩnh vực rủi ro như CK hay BĐS.
10
2.1.2.4. Khả năng sinh lời
Giai đoạn này, ROA và ROE của các ngân hàng có xu hướng sụt giảm, đặc biệt là hai
năm 2008 và 2009, đây là những năm mà nền kinh tế thế giới chịu khủng hoảng nặng nề và kinh
tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng, tăng trưởng kinh tế sụt giảm chạm đáy trong khi lạm phát tăng
đỉnh. Ngoài ra đây cùng là giai đoạn nhiều NHTMCP nông thôn chuyển sang thành thị và hiệu
lực của Nghị định 141/2006/NĐ-CP buộc các NHTMCP phải tăng vốn điều lệ, nên nhiều
NHTMCP có tốc độ tăng tài sản và vốn nhanh hơn so với tốc độ tăng lợi nhuận, và khiến cho
ROA và ROE giảm.
2.1.2.5. Đòn bẩy tài chính
Giai đoạn này, tỷ lệ đòn bẩy của các ngân hàng có xu hướng giảm mạnh trong các năm
2006 – 2007, sau đó tăng nhẹ trong các năm còn lại 2008 – 2010 với trung bình 12.6 lần. Lý giải
cho xu hướng giảm mạnh hệ số đòn bẩy các năm 2006 – 2007 là do thời kỳ này nhiều NHTMCP
chuyển đổi từ NH nông thôn sang NH thành thị và để đáp ứng Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày
22/11/2006, nhiều NHTM tăng vốn chủ sở hữu nhanh chóng.
2.1.2.6. Dự phòng rủi ro tín dụng
Việc trích lập dự phòng giai đoạn này tuân theo Quy định 493/2005/QD-NHNN. Quy
định đã phản ánh khá thực tế thực trạng tài chính của các ngân hàng, nhờ vậy việc trích lập dự
phòng của các ngân hàng giai đoạn này có ý nghĩa thực chất. Bên cạnh đó, giai đoạn này nợ xấu
chưa bộc phát nên việc trích lập dự phòng là khả quan đối với các ngân hàng
2.1.3. Thực trạng CAR tại các NHTM Việt Nam
2.1.3.1. Các quy định pháp luật ảnh hưởng đến CAR
Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung của Quyết định số 297/1999/QĐ-
NHNN5 tập trung thay đổi tỷ lệ tối đa sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
của các NHTM, nhằm điều chỉnh thanh khoản của các ngân hàng. Quyết định số 457/2005/QĐ-
NHNN thay thế QĐ 296/1999/QĐ-NHNN5 và 297/1999/QĐ-NHNN5, đã quy định “vốn tự có
bằng vốn cấp 1 cộng vốn cấp 2 trừ khoản giảm trừ”, quy định chi tiết hơn hệ số chuyển đổi rủi ro
đối với Tài sản Có. Năm 2006, Nghị định số 141 xóa bỏ hoàn toàn khái niệm NHTMCP đô thị và
NHTMCP nông thôn, đồng thời quy định vốn điều lệ của NHTM tối thiểu phải đạt 3000 tỷ năm
2010. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Đến năm 2010, NHNN ban
hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN chính thức có hiệu lực từ 01/10/2010, thay thế Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN, có ba điểm mới nâng CAR tối thiểu lên 9%, hạn chế đầu tư vào chứng
khoán và bất động sản và hạn chế tín dụng.
2.1.3.2. Thực trạng CAR tại các NHTM VN
Cuối giai đoạn này, hệ thống NHTM Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề sau ảnh hưởng đến
CAR: Thứ nhất, đến 31/12/2010 chỉ có 27/37 NH có vốn điều lệ trên 3000 tỷ, 10 ngân hàng
không thể gia tăng đúng hạn. Thứ hai, nhiều ngân hàng chuyển đổi từ NHTMCP nông thôn sang
NHTMCP đô thị có năng lực yếu, và cấp những khoản tín dụng dưới chuẩn, dẫn đến tài sản rủi ro
cao. Thứ ba, quyết định 457 không phản ánh được mức độ rủi ro của tài sản liên quan đến chứng

