Các yếu tố đảm bảo an toàn xã hội và quá trình chuẩn bị sẵn sàng thực thi REDD+: Khuôn khổ chung và các khoảng trống cần lấp đầy đối với tỉnh Quảng Bình, Việt Nam

Berlin Tháng 12 năm 2012 Dr. Rita Gebert Với các thông tin đầu vào của Ông Nguyễn Văn Hợp Và sự hỗ trợ của Ông Nguyễn Thanh Phương

Published by :

i

Lời nói đầu

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ của những người cung cấp thông tin tham gia vào đợt nghiên cứu này. Chúng tôi đánh giá cao sự cởi mở trong các cuộc thảo luận. Chúng tôi xin cảm ơn các thành viên nam giới và nữ giới tại 11 thôn bản của 5 xã đã cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin về rừng và các hoạt động sinh kế của họ có liên quan đến rừng. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ xã đã hỗ trợ chúng tôi sắp xếp các cuộc phỏng vấn tại các thôn bản. Cuối cùng, chúng tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ đối với đợt nghiên cứu này từ phía Ông Nguyễn Trung Thực - Giám đốc dự án - và Ông Tiến sĩ Jens Kallabinski, Cố vấn trưởng hợp phần GIZ, dự án “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam”. Xin cảm ơn Ông Nguyễn Minh Đức - Cán bộ phiên dịch hợp phần GIZ - đã hỗ trợ phiên dịch trong quá trình Nhóm tư vấn tiến hành khảo sát tại thực địa. Chúng tôi thu thập được nhiều thông tin từ các cuộc thảo luận với các bên liên quan từ cấp tỉnh đến các thôn bản. Tuy nhiên, trách nhiệm về các ý kiến được nêu trong báo cáo này thuộc về các tư vấn, đặc biệt là tác giả chính - Tiến sĩ Rita Gebert. Những ý kiến trong báo cáo này không nhất thiết phải đại diện cho các ý kiến của GIZ, KfW hay của các thành viên của UBND tỉnh Quảng Bình. Tất cả các bức ảnh trong báo cáo được chụp bởi tác giả - Bà Rita Gebert.

ii

Danh sách từ viết tắt

Ban quản lý rừng đặc dụng Ban quản lý rừng rừng phòng hộ Bộ Hợp tác Phát triển Kinh tế Đức

BQLRĐD BQLRPH BMZ Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn CBD CHLB Đức COP DVMTR EUR FSC FPIC

GIZ IDLO ILO IUCN KfW LNCĐ LTQD MRV NRAP ODA QLRCĐ Quỹ FCPF RECOFTC REDD REDD+

Công ước về Đa dạng sinh học Nước Cộng hòa liên bang Đức Hội nghị các bên Dịch vụ môi trường rừng Euro Hội đồng Quản trị rừng quốc tế (Forest Stewardship Council) Nguyên tắc tham vấn đồng thuận tự nguyện, được thông báo trước và được cung cấp thông tin Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức - Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit Tổ chức Luật phát triển Quốc tế Tổ chức Lao động Quốc tế International Union for the Conservation of Nature Ngân hàng Tái thiết Đức - Kreditanstalt für Wiederaufbau Lâm nghiệp cộng đồng Lâm trường quốc doanh Hệ thống giám sát - báo cáo - kiểm chứng Kế hoạch Hành động quốc gia sẵn sàng thực thi REDD+ của Việt Nam Hỗ trợ phát triển chính thức Quản lý rừng cộng đồng Quỹ đối tác carbon trong lâm nghiệp Trung tâm vì con người và rừng Giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng REDD cộng vai trò bảo tồn của trữ lượng carbon rừng, quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng carbon Mức phát thải tham chiếu Đề cương ý tưởng kế hoạch sẵn sàng thực thi REDD+ Kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ Kế hoạch hành động chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+

REL R-PIN R-PP RRAP Sở NN&PTNT Sở Nông ngiệp và Phát triển nông thôn Sở TN-MT STWG-SG UBND UNESCO UNFCCC UN-REDD

Sở Tài nguyên và Môi trường Tiểu nhóm công tác kỹ thuật về các biện pháp đảm bảo an toàn Ủy ban nhân dân Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc Công ước khung Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu Chương trình hợp tác thực hiện REDD của Liên hiệp quốc tại các quốc gia đang phát triển Đồng Việt Nam Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ bàng VND VQG PNKB

Tỉ giá hối đoái bình quân (tháng 11 năm 2012): EUR – VND = 1:26,000 USD – VND = 1:20,000

iii

Mục lục

Danh sách các bảng biểu

Số hộ nghèo và cận nghèo tại vùng đệm và vùng lõi, 2011 .................................... 20 Bảng 1: Bảng 2: Nhu cầu gỗ hộ gia đình hằng năm tại các xã vùng đệm, 2008 ............................... 27 Bảng 3: Đất rừng thuộc quản lý của xã, VQG PNKB, LTQD và BQLRPH (ha) .................... 34

Danh sách các hình ảnh

Bản đồ phân bố rừng năm 2000 và Bản đồ thay đổi loại rừng năm 2010 ................. 2 Hình 1: Hình 2: Giao đất giao rừng theo các bên liên quan: Việt Nam, 2010 (của IDLO, 2011) ..... 10

Danh sách các hộp thông tin và các hình ảnh

Hộp 1:

Các chính sách và các chương trình hướng đến hoặc tác động đến người dân tộc thiểu số .................................................................................................................. 17 Việc dịch chuyển địa phương phát thải khí nhà kính - Xuất khẩu suy thoái rừng .... 25 Hộp 2:

Danh sách các phụ lục Phụ lục 1: Các điều khoản tham chiếu nhiệm vụ ..................................................................... 46 Phụ lục 2: Các cá nhân đã phỏng vấn và Chương trình công tác ........................................... 52 Phụ lục 3: Thông tin cơ bản về các xã vùng đệm .................................................................... 55 Phụ lục 4: Bảng câu hỏi phỏng vấn ......................................................................................... 57 Phụ lục 5: Tuyển tập các tài liệu pháp lý liên quan .................................................................. 59 Phụ lục 6: Tóm tắt các ghi chép tại thực địa ........................................................................... 64 Phụ lục 7: Các bản đồ liên quan ............................................................................................. 70

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

1

1.

Giới thiệu và thông tin cơ sở

Cơ sở của đợt nghiên cứu này chính là một đơn nghiên cứu trước đó được Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức - Gesellschaft für internationale Zusammenarbeit (GIZ) - thực hiện trong tháng 03 năm 2012. Đợt nghiên cứu này sẽ dựa trên cơ sở các kết quả của Đoàn Phát triển Chương trình về hợp tác kỹ thuật Việt Nam - Đức đối với các chủ đề về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái rừng. Một trong những kết luận được đưa ra của Đoàn Phát triển Chương trình đó là sẽ hữu ích nếu đánh giá khả năng hỗ trợ thực hiện các chương trình liên quan đến “Giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng” (REDD+)1 ở tỉnh Quảng Bình. Nếu có thể, dự án về sẵn sàng thực hiện REDD+ có thể được thiết kế thực hiện độc lập thay vì được thiết kế thành một hợp phần của dự án đang hoạt đông hiện tại “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình.” Dự án hiện tại là một trong các dự án hợp tác phát triển Việt Nam- Đức. Dự án được thực hiện giữa Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (UBND tỉnh) (thay mặt Chính phủ Việt Nam) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) (thay mặt Chính phủ CHLB Đức). Chủ dự án là UBND tỉnh Quảng Bình. Dự án được tài trợ thông qua nguồn ngân sách cấp tỉnh (phía Việt Nam) và nguồn quỹ được cấp từ Bộ Hợp tác Phát triển Kinh tế Đức (BMZ) thông qua 2 tổ chức là KfW và GIZ. Dự án được lập kế hoạch thực hiện trong vòng 08 năm qua 03 giai đoạn và sẽ kết thúc vào 09/2013. Đợt nghiên cứu này được hỗ trợ thực hiện bởi Hợp phần GIZ của Dự án. Khu vực dự án bao gồm vùng lõi của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ bàng (VQG PNKB) với diện tích 125.498 ha và vùng đệm 225.000 ha. Dân số của 13 xã vùng đệm hiện ước tính trên 64.000 người và phần lớn là người dân nông thôn. Việc sử dụng các nguồn tài nguyên rừng của người dân khá đa dạng, tùy thuộc phần nhiều vào tính sẵn có của các nguồn tài nguyên rừng trong khu vực sinh sống của người dân địa phương. Sự không đảm bảo về sinh kế đóng một vai trò trong việc xác định phụ nữ và đàn ông tại các thôn bản khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên như thế nào. Chính sự không đảm bảo về sinh kế là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy thoái rừng ở Quảng Bình và điều này sẽ phải được giải quyết trong các hoạt động về REDD + và các nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội bổ sung khác. Dân cư của 13 xã chủ yếu là người Kinh, nhưng so với toàn tỉnh Quảng Bình, tỷ lệ phần trăm của các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn rất nhiều (khoảng 19% so với chỉ có 2,4% toàn tỉnh - xem Bảng tại Phụ lục 3). Số liệu về dân số cho thấy rằng có khoảng 63% tổng dân số của các nhóm dân tộc thiểu số trong tỉnh sống ở 13 xã thuộc ba huyện Bố Trạch, Minh Hóa và Quảng Ninh.2 Độ che phủ rừng của tỉnh cũng tập trung ở mức cao nhất tại khu vực vùng đệm và vùng lõi của Vườn. REDD+ là một khái niệm hoạt động mới tại Quảng Bình. UBND tỉnh Quảng Bình đã xin tham gia chương trình hỗ trợ thí điểm sẵn sàng thực thi REDD+ thuộc Chương trình tổng thể về sẵn sàng thực thi REDD+ của Việt Nam theo sáng kiến của Quỹ đối tác carbon trong lâm nghiệp (FCPF) hiện hành của Ngân hàng Thế giới vào giữa năm 2012. Trước đó, “Đề cương ý tưởng kế hoạch sẵn sàng thực thi REDD+” (R-PIN)3 (2008) do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) xây dựng đưa ra ý kiến tập trung thực hiện chương trình này tại các tỉnh Tây Nguyên và Bắc Trung bộ, trong đó có khả năng Quảng Bình sẽ được chọn. Tổ chức GIZ đã tiến hành đợt công tác của Đoàn Phát triển Chương trình nhằm xác định quy mô thực hiện REDD+ vào tháng 09 năm 2012, và sau đó, một cuộc hội thảo khởi động về việc sẵn sàng thực hiện REDD+ đã được tổ chức tại Quảng Bình trong tháng 10 năm 2012. Ban chỉ đạo thực hiện REDD+ đã được thành lập chính thức đầu tháng 11 năm 2012 theo Quyết định số 2797/QĐ-CT của UBND tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên, tại thời điểm Tư vấn viết báo cáo này, quyết định cuối

1 Trong năm 2009, Hội nghị COP 15, khái niệm gốc về REDD đã được điều chỉnh để trở thành REDD+, có nghĩa là REDD cộng với vai trò bảo tồn của trữ lượng carbon rừng, quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng carbon. 2 Số liệu của Ủy ban Dân tộc thiếu số và số liệu tổng điều tra dân số của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2009. Tổng số người dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại 13 xã vùng đệm khoảng 13.200 người trong khi tổng số người dân tộc thiểu số của toàn tỉnh là 20.427 người. 3R-PIN = Đề cương ý tưởng kế hoạch sẵn sàng thực thi REDD+.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

2

cùng giữa Bộ NN&PTNT và Quỹ FCPF liên quan đến việc lựa chọn các tỉnh tham gia chương trình hỗ trợ thí điểm sẵn sàng thực thi REDD+ ở cấp địa phương vẫn chưa được thống nhất. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của trong hai thập kỷ qua, dù hiện giờ đang gặp một số khó khăn và đi kèm là tỷ lệ lạm phát cao; tuy nhiên, cùng với đà tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam cũng phải trả giá cho việc sử dụng ở mức độ cao các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và một trong những hậu quả để lại đó sự suy thoái của rừng và đa dạng sinh học của Việt Nam.4 Khi đánh giá các nguyên nhân chính dẫn đến nạn phá rừng và suy thoái rừng ở cấp địa phương, cần phải xem xét đến vai trò của các chính sách kinh tế vĩ mô và phát triển. Việt Nam cũng là một trong các quốc gia trên toàn thế giới được dự kiến sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất từ biến đổi khí hậu.5 Tỉnh Quảng Bình cũng đã bị suy thoái rừng đáng kể trong vòng 10-15 năm qua, và nạn phá rừng vẫn đang diễn ra tại thời điểm hiện tại. (Xem Hình 1 dưới đây.)

Hình 1: Bản đồ phân bố rừng năm 2000 và Bản đồ thay đổi loại rừng năm 2010

Trong khi các bản đồ quá nhỏ để có thể so sánh dễ dàng, một trong những khác biệt đáng chú ý nhất đó là quá trình mất "rừng giàu" (khu vực màu xanh đậm) từ 2000-2010 đồng thời là quá trình gia tăng diện tích rừng trồng; bản đồ năm 2010 đã được xây dựng dựa trên sự so sánh giữa 2 năm 2000 và 2010. Các khu vực màu đỏ trên bản đồ năm 2010 thể hiện tình trạng phá rừng. Xem bản đồ với kích thước đầy đủ tại trang web của JICA/JOFCA: http://www.jpn-vn-redd.org Hội nghị các bên (COP) Công ước khung Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), tại Quyết định 1/CP.16 được đưa ra tại Hội nghị biến đổi khí hậu tại Cancun, 2010 đã nhấn mạnh đến việc bao gồm các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội và các khía cạnh khác theo REDD+ hướng đến việc bảo vệ và thúc đẩy các mối quan tâm và các lợi ích của người dân bản địa và

4 Xem Báo cáo Phát triển Việt Nam, 2011: 5 - 6. “Phần lớn sự tăng trưởng kinh tế dựa trên sự khai thác mạnh mẽ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. . . . Nhưng cuối cùng, kết quả sẽ là sự gia tăng áp lực đối với dự trữ tài nguyên và ô nhiễm”. 5 Theo Cơ quan toàn cầu giảm nhẹ và hồi phục sau thiên tai: “Việt Nam là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các tác động của biến đổi khí hậu”.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

3

các cộng đồng địa phương. Đợt nghiên cứu lần này được thực hiện với mục đích hỗ trợ tỉnh Quảng Bình lập kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ với trọng tâm đặc biệt tập trung vào các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội. Nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các khuôn khổ pháp lý và chính sách về rừng, đất đai và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, mô tả tình hình đói nghèo và sinh kế ở các xã vùng đệm của VQG PNKB, và thực trạng khai thác tài nguyên rừng của các cộng đồng địa phương và tình trạng giao đất giao rừng và quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ) tại các địa phương. Nghiên cứu này cũng trình bày một cách tổng quan về mối quan hệ của cộng đồng với các bên liên quan chủ yếu khác trong ngành lâm nghiệp: các lâm trường quốc doanh (LTQD), VQG PNKB và thương nhân và các bên trung gian. Cuối cùng, báo cáo này cung cấp kết quả phân tích các khoảng trống hiện có ở cấp địa phương (tỉnh Quảng Bình) cần phải được lấp đầy nhằm có thể chuẩn bị sẵn sàng thực thi REDD+ và thực hiện được các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội. Sự công nhận về các khoảng trống nói trên sẽ giúp cung cấp các thông tin đầu vào ban đầu, từ đó, đưa các yếu tố đảm bảo an toàn xã hội vào quá trình lập kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng thực thi REDD+.

1.1

Điều khoản tham chiếu nhiệm vụ

Điều khoản tham chiếu nhiệm vụ (được trình bày tại Phụ lục 1) cho đợt nghiên cứu này được xây dựng với nhiều tham vọng nếu xét đến vị thể “người mới” về thực thi REDD+ đối với Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói riêng. Mục tiêu của đợt nghiên cứu này như sau: Thúc đẩy, hoàn thiện cơ sở dữ liệu nhằm xây dựng khung các biện pháp xã hội an toàn (sử dụng đất, sở hữu đất đai, sinh kế, sự tham gia) và chuẩn bị cho quá trình thực hiện thí điểm. Với khung thời gian hạn chế của bản thân đợt nghiên cứu này, cộng với các cam kết đồng thời và khẩn cấp khác của Hợp phần GIZ, mục tiêu của đợt ngiên cứu này đã được giải thích theo cách đánh giá thực tế hơn. Vẫn còn quá sớm để tập trung vào việc chuẩn bị cho một "quá trình tham vấn cộng đồng thí điểm" nếu xét rằng cơ quan đầu mối cho REDD+ ở Quảng Bình (Sở Nông ngiệp&Phát triển nông thôn - Sở NN & PTNT) chỉ mới được xác định theo Quyết định của UBND tỉnh trong tháng 11 năm 2012 và một số các cán bộ chủ chốt của các cơ quan ban ngành vì bận việc nên không thể tham gia phỏng vấn tại thời điểm tổ chức đợt nghiên cứu này. Hơn nữa, các vấn đề liên quan đến REDD+ vẫn chưa được phổ biến rộng rãi tại Quảng Bình và tại thời điểm nghiên cứu, các cán bộ chủ chốt của các cơ quan ban ngành vẫn chưa nắm rõ về các khái niệm liên quan đến các yếu tố đảm bảo an toàn trong thực hiện REDD+. Do đó, Tư vấn tập trung vào việc cải thiện cơ sở thông tin hiện có, giúp các cơ sở thông tin nói trên phù hợp với khung lập kế hoạch về các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội trong thực hiện REDD+ đối với tỉnh Quảng Bình. Thay vì chuẩn bị một quá trình tham vấn thí điểm, Tư vấn đã tập trung vào các khoảng trống mà đợt nghiên cứu này nhấn mạnh vào và cần được lấp đầy trong quá trình thực hiện Chương trình chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ khi tỉnh Quảng Bình được chọn là một trong các cấp địa phương thực hiện thí điểm chương trình này. Việc “phân tích các khoảng trống” sẽ xem xét đến các điều kiện khung về các yếu tố đảm bảo an toàn xã hội tại Quảng Bình cùng với các hoạt động hiện có có khả năng “lấp đầy các khoảng trống” hoặc hỗ trợ tỉnh trong quá trình chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện REDD+. Giả định chính của đợt nghiên cứu này đó là VIệt Nam tiếp tục cam kết thí điểm REDD+ ở cấp địa phương, và rằng Quảng Bình sẽ được chọn là một trong các tỉnh thuộc Kế hoạch hành động chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ như đề cập sau đây: Giai đoạn 2011-2015: lựa chọn ít nhất 08 tỉnh thí điểm, phát triển các mô hình trình diễn dựa trên các kết quả thực hiện, thí điểm hệ thống phân chia lợi ích. Tóm tắt, đánh giá, đúc rút các bài học và các kinh nghiệm thực hiện.

1.2

Phương pháp nghiên cứu

Đợt nghiên cứu được thực hiện tại tỉnh Quảng Bình và tại Hà Nội với sự tham gia của các thành viên sau đây:

 Ts. Rita Gebert, Trưởng nhóm nghiên cứu. chuyên gia cấp cao về phát triển kinh tế-xã hội với nhiều kinh nghiệm về sinh kế nông thôn và dựa vào rừng tại các khu vực vùng núi và cao nguyên ở Đông Nam Á.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

4

 Ông Nguyễn Văn Hợp, cán bộ lâm nghiệp Dự án Khu vực PNKB có nhiều kinh nghiệm về quản lý rừng cộng đồng và giao đất giao rừng, được cử làm việc cùng với Nhóm tư vấn (hỗ trợ quá trình nghiên cứu tại Quảng Bình).  Ông Nguyễn Minh Đức, cán bộ phiên dịch của Dự án được cử làm việc cùng với Nhóm tư vấn.

Bên cạnh đó, nhóm còn nhận được sự hỗ trợ của ông Nguyễn Thanh Phương, tư vấn REDD+ cho Hợp phần GIZ trong việc thiết lập các mối liên hệ và sắp xếp các cuộc họp với các bên liên quan về REDD+ đặc biệt là ở cấp quốc gia. Nhóm đã dành những ngày đầu tiên ở Đồng Hới để thảo luận và chuẩn bị tại văn phòng dự án, bao gồm việc hoàn tất lựa chọn các xã. Việc lựa chọn các xã chủ yếu dựa vào các xã đã được thăm và phỏng vấn trong năm 2011 trong đợt nghiên cứu về Giới, Đói nghèo, Dân tộc thiểu số, và sinh kế tại khu vực VQG PNKB.6 Với giới hạn về thời gian chỉ có tám ngày để điều tra tại các huyện, xã và các thôn bản, nhóm giữ số lượng xã là năm (05) xã vùng đệm VQG PNKB (bỏ đi hai xã vùng lõi vì khoảng cách đi lại quá xa), do vậy 02 xã ở Bố Trạch (Hưng Trạch và Xuân Trạch) và 02 xã ở Minh Hoá (Dân Hóa và Hóa Sơn), và 01 xã ở Quảng Ninh (Trường Sơn) sẽ được chọn để phỏng vấn. Bốn trong số năm (05) xã được lựa chọn cho các chuyến thăm thực địa đã được phỏng vấn trong đợt nghiên cứu về Giới, Đói nghèo, Dân tộc thiểu số được thực hiện trong tháng 11 năm 2011. Đây được coi là cách làm hiệu quả nhất và hiệu dụng về chi phí nhất nhằm tận dụng tốt nhất khung thời gian giới hạn: dựa trên các thông tin sẵn có đã được thu thập trong đợt nghiên cứu 01 năm trước đó và sử dụng những thông tin này như là một điểm khởi đầu cho việc điều tra sâu hơn về việc sử dụng các nguồn tài nguyên dựa vào rừng của các cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, để tăng số lượng tổng thể các xã được phỏng vấn, một xã khác của huyện Minh Hóa đó là xã Hóa Sơn - cũng có diện tích đáng kể của VQG PNKB nằm trong địa bàn xã - đã được lựa chọn. Việc lựa chọn thôn bản cũng được thực hiện dựa trên số lượng các thôn bản đã được tiếp cận trong quá trình nghiên cứu sinh kế được thực hiện trong năm trước đó. Trong hai năm 2011 và 2012, 15 thôn bản đã được tiếp cận và phỏng vấn. Với việc các nhóm dân tộc thiểu số ở Quảng Bình phụ thuộc vào rừng ở mức độ cao hơn đối với các hoạt động sinh kế của họ, cộng với việc bảo vệ quyền lợi của người dân bản địa/dân tộc thiểu số có tầm quan trọng cao trong việc thực hiện REDD+, ưu tiên chọn mẫu đã được dành cho các thôn bản dân tộc thiểu số - trong số 11 thôn bản được tiếp cận và phỏng vấn trong năm 2012, có 06 bản chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số. Các nhóm dân tộc thiểu số bao gồm Bru-Vân Kiều, Khùa, Sách và Thổ (nhóm cuối cùng chỉ sinh sống tại xã Hóa Sơn). Xem Phụ lục 3 để biết thông tin nhân khẩu học về các dân tộc thiểu số ở Quảng Bình. Nhóm Bru-Vân Kiều, bao gồm nhóm nhỏ Khùa, là nhóm dân tộc thiểu số chủ yếu ở Quảng Bình với 72% tổng số người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Các cuộc điều tra khảo sát tại các thôn bản luôn được thực hiện với sự hỗ trợ của các cán bộ xã. Bảng câu hỏi mẫu (xem Phụ lục 4) đã được sử dụng để hướng dẫn cho các cuộc thảo luận nhóm về các hoạt động sinh kế dựa vào rừng. Các cuộc họp cấp xã đã được tổ chức tại tất cả 05 xã với sự tham gia của các cán bộ UBND các xã. Dữ liệu định tính thu thập được trong năm 2011 và năm 2012 được bổ sung bằng các dữ liệu thứ cấp có sẵn được thu thập tại các bên có liên quan. Đầu tiên, nhóm đã làm việc với Chi cục Lâm nghiệp, và sau đó với Chi cục Kiểm lâm và Sở Tài nguyên và Môi trường (Sở TN-MT) vào thời gian cuối của đợt công tác tại Đồng Hới. Lịch trình đợt nghiên cứu tại Việt Nam và một danh sách riêng những người được phỏng vấn được trình bày tại Phụ lục 2. Nhóm cũng đã làm việc với Ban quản lý VQG PNKB và các Hạt Kiểm lâm ở Bố Trạch và Minh Hoá. Nhóm chỉ có thể làm việc với đại diện lãnh đạo và cán bộ của UBND huyện Minh Hóa. Các kết quả sơ bộ của đợt tư vấn đã được trình bày tại Đồng Hới chủ yếu cho Ban quản lý dự án tỉnh của Dự án Khu vực PNKB. Nhóm đã nhận được các phản

6 Đợt nghiên cứu “Giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số và sinh kế tại các xã vùng đệm VQG PNKB” (2011) do bà Rita Gebert và ông Trang Hiếu Tường thực hiện trong năm 2011. Phần lớn các số liệu trong đợt nghiên cứu này vẫn phù hợp với tình hình hiện tại; một số bảng biểu từ báo cáo này được trình bày tại Phụ lục 3 của báo cáo này.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

5

hồi hữu ích từ phía các thành viên tham gia cuộc họp nói trên và những ý kiến này cũng được phản ánh trong báo cáo này.

1.3

Thông tin cơ sở về c ác vấn đề đảm bảo an toàn trong REDD+

Tại Hội nghị COP 16, một khuôn khổ toàn diện hơn đã được xây dựng cho REDD, và cho ra đời REDD+. Theo phần chính của Quyết định 1, các đoạn 70 và 72 nêu rõ các dụng ý của Hội nghị COP. Đoạn 70 đề cập đến các khía cạnh sau đây đề làm rõ về REDD+ gắn với quản lý rừng: (a) Giảm phát thải từ mất rừng; (b) Giảm phát thái từ suy thoái rừng; (c) Bảo tồn trữ lượng carbon của rừng; (d) Quản lý bền vững các khu vực rừng; (e) Nâng cao trữ lượng carbon của rừng; Đoạn 72 nêu rõ rằng 05 yếu tố nói trên xác định khuôn khổ REDD+ phải bao gồn việc xem xét cụ thể các vấn đề sau:

 Các nguyên nhân dẫn đến mất rừng và suy thoái rừng;  Các vấn đề về quyền sử dụng đất;  Các vấn đề về quản trị rừng;  Các vấn đề xem xét về giới;  Các vấn đề đảm bảo an toàn và sự tham gia của các bên liên quan.

Cả hai đoạn 70 và 72 đều đề cập đến các yếu tố đảm bảo an toàn được nêu tại Đoạn 2 Phụ lục 1, nêu rõ các yếu tố nói trên là một phần không thể tách rời của REDD+. Có 07 yếu tố đảm bảo an toàn được nêu tại Đoạn 2 Phụ lục 1 như sau: 1. Phù hợp với các chương trình lâm nghiệp quốc gia và các mục tiêu của các công ước/thỏa thuận quốc tế; 2. Có cơ cấu quản trị rừng cấp quốc gia minh bạch và hiệu quả; 3. Tôn trọng kiến thức và quyền của người dân bản địa và các cộng đồng địa phương; 4. Có sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của các bên liên quan, đặc biệt là người dân bản địa và các cộng đồng địa phương; 5. Bảo tồn rừng tự nhiên và đa dạng sinh học, đảm bảo rằng các hoạt động được nêu tại Đoạn 70 không được dùng đề chuyển đổi rừng tự nhiên, mà là để khuyến khích bảo vệ và bảo tồn rừng tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái của rừng, và để tăng cường các lợi ích khác về xã hội và môi trường7; 6. Các hành động giải quyết các nguy cơ đảo ngược; 7. Các hành động giảm trừ về chuyển dịch địa phương phát thải khí nhà kính (sang các khu vực khác, các quốc gia khác). Ngoài việc cần tiến hành giám sát, báo cáo và kiểm chứng (MRV) để theo dõi các thay đổi liên quan đến trữ lượng carbon rừng, các quốc gia đang phát triển cũng được yêu cầu theo Đoạn 71 cung cấp thông tin về thực hiện các yếu tố đảm bảo an toàn: “Một hệ thống cung cấp thông tin về cách giải quyết và tôn trọng các yếu tố đảm bảo an toàn được đề cập đến theo Phụ lục I của Quyết định này trong quá trình thực hiện các hoạt động được đề cập đến trong Đoạn 70.” Tại Hội nghị COP 17 được tổ chức tại Durban vào năm 2011, COP tái khẳng định tầm quan trọng của các vấn đề về đảm bảo an toàn với Quyết định 12/CP.17 hướng dẫn về việc làm thế nào để cung cấp thông tin chứng minh rằng tất cả các vấn đề về đảm bảo an toàn đang được giải quyết và tôn trọng. Sau đây là một số trong những điểm nói rõ về việc cung cấp thông tin:  Cung cấp thông tin minh bạch và nhất quán và tất cả các bên liên quan có thể tiếp cận và cập nhật một cách thường xuyên;

7 Miêu tả vế yếu tố đảm bảo an toàn này có một ghi chú bổ sung: Xem xét nhu cầu sinh kế bền vững của người dân bản địa và cộng đồng địa phương và sự phụ thuộc lẫn nhau của họ đối với rừng tại hầu hết các quốc gia, như đã được phản ánh trong Tuyên bố Liên hiệp quốc về quyền của người dân bản địa .....

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

6

 Minh bạch và linh hoạt cho phép cải thiện và điều chỉnh theo thời gian;  Cung cấp thông tin về việc tất cả các vấn đề về đảm bảo an toàn được đề cập trong Phụ lục I của Quyết định 1/CP.16 đang được giải quyết và tôn trọng như thế nào;

 Theo định hướng quốc gia và được triển khai thực hiện ở cấp quốc gia;  Xây dựng dựa trên hệ thống hiện có, nếu thích hợp.

Để khẳng định một lần nữa về tầm quan trọng của các biện pháp đảm bảo an toàn đối với đa dạng sinh học và người dân bản địa/các cộng đồng địa phương, Cơ quan tư vấn khoa học, kỹ thuật và công nghệ cho Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) đã đưa ra một loạt các khuyến nghị về các vấn đề đảm bảo an toàn tại cuộc họp lần thứ 16 của cơ quan này được tổ chức vào tháng 05 năm 2012.8 Như vậy, cộng đồng quốc tế bao gồm Hội nghị các Bên tham gia UNFCCC và Công ước về Đa dạng sinh học đã tái khẳng định tầm quan trọng của các vấn đề đảm bảo an toàn và sự cần thiết phải thực hiện, theo dõi và báo cáo về các vấn đề trên. Có một số biến thể về các vấn đề đảm bảo an toàn xã hội đã được phát triển theo các thỏa thuận và các tổ chức khác nhau. Cả Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á đều duy trì các chính sách về các vấn đề đảm bảo an toàn đối với các dự án có thể có các tác động tiêu cực tiềm tàng ảnh hưởng đến người dân bản địa/dân tộc thiểu số. Hội đồng Quản trị rừng quốc tế (Forest Stewardship Council - FSC) cũng đưa các vấn đề đảm bảo an toàn xã hội vào trong danh sách các nguyên tắc và tiêu chuẩn nếu một cá nhân/đơn vị quản lý rừng mong muốn đạt được chứng chỉ quản lý rừng (chứng chỉ FSC). Hơn nữa, Quỹ FCPF cũng coi phần đánh giá môi trường và xã hội chiến lược như là một điều kiện để cung cấp hỗ trợ thực hiện REDD+. Đánh giá môi trường và xã hội chiến lược là một quá trình tạo ra cơ sở thực hiện các cuộc thảo luận giữa các bên liên quan khác nhau hướng đến việc giảm thiểu các rủi ro xã hội và môi trường thông qua việc thực hiện REDD+ (Việt Nam, R-PP, tháng 11 năm 2011). Tuy nhiên, vì mục đích tạo sự đơn giản, báo cáo nghiên cứu này sẽ chỉ tập trung vào các vấn đề đảm bảo an toàn được liệt kê tại Phụ lục 01 của Quyết định 1/CP.16 Các vấn đề đảm bảo an toàn xã hội vẫn chưa được chú ý nhiều trong Kế hoạch Hành động quốc gia sẵn sàng thực thi REDD+ của Việt Nam (NRAP), 2011 - 2020, bởi các vấn đề này chỉ được đề cập thoáng qua. Tiểu nhóm công tác kỹ thuật về các biện pháp đảm bảo an toàn (STWG-SG) chỉ mới được thành lập vào đầu năm 2012 và vẫn chưa tổ chức được nhiều cuộc họp hoặc đạt được các tiến bộ đáng kể.9 Trong quá trình UN-REDD tiến hành thí điểm tại tỉnh Lâm Đồng (giai đoạn I kết thúc vào năm 2012, giai đoạn II với nhiều tỉnh thí điểm hơn dự kiến sẽ bắt đầu trong năm 2013), quá trình tham vấn cộng đồng theo nguyên tắc tự nguyện, báo trước và được cung cấp thông tin (nguyên tắc FPIC) đã được áp dụng thực hiện nhưng được coi là không thành công bởi vì một số lý do, một trong số các nguyên nhân chính là nguyên tắc FPIC đã được thực hiện quá sớm trong điều kiện chỉ mới tiến hành quá trình thí điểm tổng thể về REDD+.10

2.

Khung pháp lý và chính sách liên quan đến Các tiêu chuẩn bảo đảm an toàn về REDD+

Việt Nam có một bộ khung pháp lý và chính sách toàn diện và được xây dựng kỹ càng bao quát nhiều vấn đề có liên quan đến việc thực hiện REDD+. Bộ khung này dựa trên một hệ thống cấp

học, phiên họp16 XVI/7 tại www.cbd.int/recommendation/sbstta/?id=13056

9 Xem www.vietnam-redd.org về các thông tin cập nhật. Kế hoạch đó là thiết lập lộ trình về các biện pháp

đảm bảo an toàn thực thi REDD+.

10 Xem ví dụ về báo cáo UN-REDD (2012) “Bài học kinh nghiệm: Giai đoạn I Chương trình UN-REDD Việt Nam”; xem báo cáo của Nguyễn và đồng sự (2010) “Đánh giá và kiểm chứng quy trình tham vấn đồng thuận miễn phí, được báo trước và được cung cấp thông tin - FPIC theo chương trình UN-REDD được thực hiện tại tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam”.

8 Xem các kiến nghị của Cơ quan tư vấn khoa học, kỹ thuật và công nghệ cho Công ước về Đa dạng sinh

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

7

bậc các luật, các nghị quyết, các quyết định, các nghị định và các thông tư.11 Bộ khung này quy định cách phân loại và sử dụng rừng, việc giao đất gồm giao đất nông nghiệp và đất rừng, việc chi trả cho các dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), công tác bảo vệ môi trường, quá trình chuyển đổi các lâm trường quốc doanh (LTQD), công tác quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ) và việc phát triển diện tích rừng trồng. Một trong những văn bản nổi bật nhất được ban hành gần đây chính là Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp, 2006 – 2020 (dựa theo Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ). Một số các khung pháp lý quan trọng khác như các khung pháp lý liên quan đến công tác phát triển kinh tế-xã hội và giảm nghèo mặc dù không được trình bày ở đây cũng có những khía cạnh liên quan đến ngành lâm nghiệp. Ngoài ra còn có tài liệu chiến lược dài hạn về đa dạng sinh học. Trong phần này chúng ta sẽ quan tâm sâu đến các khía cạnh của khung pháp lý và chính sách liên quan đến các yếu tố đảm bảo an toàn của REDD+, thay vì REDD+ nói chung. Các chủ đề như thực trạng việc điều tra và giám sát rừng, hoặc các quyền tài phán chồng chéo nhau gây ra những thách thức cho việc thiết lập mức phát thải tham chiếu (REL) và việc thực hiện hệ thống giám sát - báo cáo - kiểm chứng (MRV) sẽ không được đè cập đến trong báo cáo này. Tuy vậy, độc giả sẽ được giới thiệu qua về một báo cáo tổng quan tốt được Tổ chức Luật phát triển Quốc tế (IDLO) xây dựng vào tháng 11/2011 về quá trình chuẩn bị sẵn sàng về mặt pháp lý của Việt Nam chuẩn bị thực hiện REDD+: “Chuẩn bị sẵn sàng về pháp lý để thực hiện REDD+ tại Việt Nam: Nghiên cứu quốc gia”. Phần báo cáo này tập trung vào các kết quả phát hiện và các kết quả phân tích của báo cáo này.12 Tham chiếu nhiệm vụ của đợt tư vấn này đòi hỏi có phần phân tích “pháp luật quốc gia, các chính sách, quy định và chiến lược liên quan đến người bản địa hoặc người dân tộc thiểu số, việc sử dụng và sở hữu đất đai, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên rừng, các quá trình có sự tham gia và tham vấn (ví dụ như luật về rừng, các chính sách về sử dụng và sở hữu đất, kế hoạch quản lý rừng và đất đai, quy trình tham vấn có sự tham gia).” Với việc có hàng trăm văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực sử dụng đất và rừng, và phần nhiều các văn bản đó được ban hành trong vòng 05 năm trở lại đây, Tư vấn trong một khoảng thời gian có hạn không thể tiến hành phân tích sâu mà chỉ có thể đưa ra một phần phân tích tổng quan. Phần dưới đây nêu lên các chính sách về dân tộc thiểu số.

2.1

Các khung pháp lý về rừng và đất rừng

Việc có một hệ thống toàn diện tất cả các luật, các nghị quyết, các nghị định, các quyết định, các thông tư và các văn bản hướng dẫn liên quan đến ngành lâm nghiệp là rất đáng khen ngợi và cho thấy sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc đảm bảo các khung chính sách và pháp lý phù hợp đối với việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc có một số lượng lớn các văn bản nói trên cũng đồng nghĩa với việc đôi khi giữa các văn bản pháp lý không có sự cố kết, bởi vì các sắc lệnh và các văn bản điều chỉnh luật được các cơ quan cấp bộ và cấp sở khác nhau ban hành. Ngoài ra, tất cả các quyết định hướng đến các cộng đồng cấp xã phải được phân tích và thực hiện bởi một số ít cán bộ cấp xã trong điều kiện họ không được trang bị thông tin một cách đầy đủ. Ví dụ, tại Quảng Bình, mặc dù là một trong những tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất Việt Nam, song tại cấp xã không có cán bộ chuyên trách về lâm nghiệp. Có xu hướng diễn ra tình trạng “quản lý quá mức” trong các lĩnh vực đất đai và rừng tại Việt Nam với nhiều điều chồng chéo và/hoặc nhiều điều trái ngược có thể gây ra sự nhầm lẫn và để lại quá nhiều khoảng trống trong việc diễn giải các văn bản pháp lý có liên quan. Ví dụ, Luật Đất đai 2003 theo dự kiến sẽ được điều chỉnh trong năm 2013 - Phản hồi của Quốc hội Việt Nam về vấn đề này cho biết có một số vấn đề cần có các giải pháp cấp bách: Ông Nguyễn Văn Giàu - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết có có quá nhiều sự mâu thuẫn, không ổn định

11 Xem thông tin tổng quan về hệ thống các văn bản pháp lý của Việt Nam tại Phụ lục 5. Ngoài ra có một số ít các văn bản pháp lý về đất đai, lâm nghiệp và biến đổi khí hậu tại Việt Nam được trình bày trong Phụ lục này. 12 Một báo cáo khác của Vu Long và Vu T. Phuong (2011).

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

8

và không khả thi trong Luật đất đai và hơn 20 văn bản pháp lý khác có liên quan đến các quy định về đất đai. Trong quá khứ, các quy định pháp lý không phù hợp về quy hoạch và sử dụng đất đai đã dẫn đến việc nhiều lô đất bị bỏ hoang, trong khi nhiều người nông dân có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi không tìm ra được các cách thức tạo thu nhập nào khác.13 Sự phức tạp đối với các khía cạnh pháp lý và chính sách khác nhau liên quan đến đất đai và rừng cũng đồng nghĩa với việc các cộng đồng địa phương gần như không có cơ hội để tự tìm hiểu rõ về các luật và chính sách ảnh hưởng đến họ nhiều nhất. Vì vậy, cả hai yếu tố “sự tham gia của các bên liên quan” và “tính minh bạch” - các yêu cầu quan trọng của các vấn đề đảm bảo an toàn của REDD+ - có thể dễ dàng bị bỏ qua khi các cán bộ địa phương tự diễn giải các quy trình “theo cách của mình” hoặc đơn giản hơn là làm theo các chỉ đạo của các cấp trực tiếp cao hơn (cấp huyện hoặc cấp tỉnh). Vấn đề càng khó hơn khi cấp xã là cấp cuối cùng trong các cấp hành chính, chứ không phải là cấp thôn bản. Do đó, dù rằng Nghị định gần đây nhất (2007) về “dân chủ cơ sở” ở cấp xã (Pháp lệnh về Thực hiện dân chủ ở cấp xã, số 34/2007/PL- UBTVQH11) có cho phép người dân đưa ra ý kiến về một số chủ đề nhất định trước khi các ban ngành chức năng (thường là cấp huyện hoặc cấp tỉnh) đưa ra các quyết định cuối cùng, song điều này cũng không đồng nghĩa với việc các cộng đồng sẽ có nhiều tiếng nói quyết định ảnh hưởng đến các kế hoạch sử dụng đất và rừng tổng thể của xã nơi họ đang sinh sống. Có lẽ về khía cạnh pháp lý, điều quan trọng nhất đó là quyền sở hữu thực tế của tất cả các diện tích rừng vẫn chính thức thuộc về toàn dân Việt Nam và được đại diện bởi Nhà nước Việt Nam. Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý đất và là người ra quyết định cuối cùng về việc phân loại, rà soát lại và giao đất giao rừng theo quy định được nêu tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Như vậy, khi nói đến “các chủ rừng", điều này có nghĩa là chúng ta đang nói đến những người đã được giao quyền sử dụng đất lâm nghiệp, thường là trong một khoảng thời gian là 50 năm. Nếu đối tượng được giao đất lâm nghiệp là hộ gia đình, thì diện tích đất lâm nghiệp mà hộ gia đình đó được giao tối đa là 30 ha (về cơ bản, nếu hộ gia đình không có đất nông nghiệp). Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có tài liệu nào hướng dẫn về việc xác định số đất lâm nghiệp có thể sẽ được giao cho cộng đồng. Cuối cùng, Nhà nước có thể thu hồi lại đất rừng nếu nó không được sử dụng phù hợp với kế hoạch sử dụng đất và rừng của xã và huyện. Việc này sẽ là vấn đề đặc biệt khó khăn trong trường hợp tập quán sử dụng đất của các đồng bào dân tộc thiểu số sẽ ảnh hưởng đến các hình thức sử dụng đất khác nhau thay vì các hình thức được ghi nhận trong các tài liệu pháp lý khác nhau về bảo vệ và phát triển rừng (ví dụ: xác định các khu vực cộng đồng bỏ hoang phục vụ cho hệ thống canh tác nương rẫy).14 Sự phát triển của các chính sách lâm nghiệp của Việt Nam đã trải qua một quá trình tách ra khỏi các khu rừng tập trung chịu sự quản lý của nhà nước mà theo đó, đến năm 1989, 70% diện tích đất rừng đã được quản lý bởi các lâm trường quốc doanh (LTQD). Với Nghị quyết của Bộ Chính trị số 28-NQ/TW (2003) và Nghị định 200/2004, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự sẵn sàng để cải cách hệ thống các LTQD. Ý tưởng đó là cải cách các LTQD sao cho số lượng và quy mô của chúng giảm xuống đến mức hiệu quả về mặt kinh tế và từ đó giúp các LTQD sau cải cách sẽ hoạt động có lợi nhuận. Tốc độ cải cách LTQD diễn ra không giống nhau tại các địa phương, và Quảng Bình dường như là một tỉnh có số lượng khá lớn các LTQD hiện nay đang kiểm soát các diện tích đất rừng trên toàn tỉnh. Nhiều vấn đề đã phát sinh gắn với việc cải cách LTQD tại các địa phương, và một số vấn đề trong đó có thể gây ảnh hưởng đến các biện pháp đảm bảo an toàn khi thực thi REDD+ (xem phần thảo luận trong đoạn 5.1 dưới đây). Nghị định 23/2006 về thi hành luật bảo vệ và phát triển rừng vẫn ủng hộ các LTQD khi đề cập đến việc "Những khu rừng sản xuất tập trung, liền vùng, liền khoảnh thì ưu tiên giao, cho thuê cho các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế để sản xuất kinh doanh lâm nghiệp". Điều này dẫn đến một trong những vấn đề hóc búa và lâu dài trong quá trình giao đất giao rừng cho các hộ gia đình và cộng đồng địa phương: tất cả các đối tượng này (quá) thường xuyên được giao đất rừng với chất lượng thấp. Quảng Bình cũng không phải là một ngoại lệ.

13http://talkvietnam.com/2012/09/red-tape-leads-to-property-disputes-national-assembly/#.ULYhoWdSQm9 14 Xem báo cáo của Nguyen Quang Tan, Nguyen Van Chinh và Vu Thu Hanh (2008) “Quyền theo luật pháp và phong tục về rừng và ý nghĩa quản trị của những quyền này: Trường hợp của Việt Nam.” IUCN. Hà Nội.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

9

Tính đến năm 2004, và cùng với việc ban hành Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi, lần đầu tiên đất rừng có thể được phân bổ một cách hợp pháp cho các nhóm hộ gia đình và các cộng đồng. Các cá nhân (bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài) và các hộ gia đình, các lực lượng vũ trang, các Ban quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH) và rừng đặc dụng (BQLRĐD), các tổ chức kinh tế tư nhân hoặc nhà nước và các viện nghiên cứu là các thực thể khác đủ điều kiện để được giao đất giao rừng từ trước đến này. Trong khi việc quá trình giao đất cho toàn bộ cộng đồng đã được thể hiện trong các điều luật chính là một bước đột phá đối với các khái niệm và các phương pháp tiếp cận về quản lý rừng cộng đồng, tuy nhiên, các cộng đồng lại không ở cùng một vị thế với các thực thể khác. Điều 05 của Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã xác định bảy loại "chủ rừng", nhưng cộng đồng không nằm trong số bảy “chủ rừng” nói trên. Nếu một cộng đồng được cấp ("được giao") đất rừng, họ không có những quyền lợi giống như bảy "chủ rừng" nói trên. Đó là, đất rừng cộng đồng không thể được phân chia, chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê và các hoạt động tương tự. Hơn nữa, các "chủ sở hữu" cộng đồng vẫn phải có nghĩa vụ tuân theo rất nhiều quy tắc và quy định khác nhau khiến họ không có nhiều thời gian tham gia vào việc ra quyết định và xác định lợi ích của địa phương. Như đã đề cập ở trên, để ổn định việc quản lý và sử dụng rừng, đất lâm nghiệp có thể được giao với thời hạn 50 năm dưới hình thức Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hay còn được gọi là Sổ Đỏ. Hình 2 dưới đây được sao chép từ Nghiên cứu chuẩn bị sẵn sàng về pháp luật thực hiện REDD+ của IDLO (2011) thể hiện tình hình phân bố đất rừng hiện nay tại Việt Nam. Biểu đồ hình tròn thể hiện sự khác biệt đối với Quảng Bình, do rất nhiều đất rừng hiện được quản lý bởi các BQLRPH và BQLRĐD và bởi các LTQD (nay dưới hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn lâm công nghiệp). Tại thời điểm viết báo cáo này, tác giá không thể có được một cái nhìn tổng quan về số lượng đất rừng đã được giao cho các hộ gia đình trên địa bàn tỉnh, mặc dù theo ước đoán con số này chiểm khoảng 75.000 ha trong số tổng số 669.130 ha (bao gồm diện tích đất trống được phân loại là đất lâm nghiệp). Luật Bảo vệ và phát triển rừng, cộng với một số quyết định khác (đặc biệt là Quyết định số 178/2001 về công thức chia sẻ lợi ích, Quyết định số 23/2006 về giao đất giao rừng theo Luật lâm nghiệp năm 2004, Quyết định số 186/2006 về các quy định về quản lý rừng, và gần đây nhất Quyết định số 99/2010 về chi trả dịch vụ môi trường rừng) quy định các loại lợi ích mà hộ gia đình và cộng đồng có thể thu được từ các sản phẩm từ rừng và đất rừng. Một lần nữa, các loại lợi ích cho các cộng đồng vẫn chưa được thể hiện rõ ràng như trong trường hợp của các hộ gia đình cá nhân. Các yếu tố phức tạp bao gồm việc rừng phục vụ mục đích sản xuất hay phòng hộ, liệu "chủ rừng" cũng là chủ đầu tư hay không, hoặc liệu Nhà nước đã tham gia hỗ trợ đầu tư phát triển rừng hay không. Tóm lại, những quy tắc và quy định nói trên quá phức tạp khiến nhiều người cảm thấy không chắc chắn về các loại quyền sử dụng và lợi ích mà họ có thể nhận được từ việc quản lý rừng tự nhiên, và do đó người dân chủ yếu quan tâm đến việc trồng rừng ngắn hạn với các loài cây như keo. Với các loài cây ngắn hạn, họ biết sau đó họ có thể có được các lợi ích kinh tế rõ ràng trong vòng mười năm dựa trên các khoản đầu tư của mình. Ngoài các lợi ích chắc chắn từ trồng cây ngắn hạn, không có điều gì chắc chắn về những điều khác.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

10

Do biểu đồ này thể hiện sự phân bố đất lâm nghiệp của toàn bộ Việt Nam, nên biểu đồ này không thể thể hiện sự khác biệt lớn tồn tại giữa các tỉnh Giao đất lâm nghiệp chắc chắn gắn liền với khái niệm về quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ) ở các nước như Việt Nam, nơi có truyền thống lâu đời về QLRCĐ, đặc biệt là giữa các nhóm dân tộc thiểu số. Mối quan tâm về lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) tại Việt Nam có từ cuối những năm 1990. Tuy nhiên, thật không may, sau hơn một thập kỷ tổ chức các cuộc thảo luận đa cấp, trong đó có một nhóm công tác cấp quốc gia được phê duyệt chính thức, và các hoạt động thí điểm ở cấp địa phương ở các tỉnh khác nhau, LNCĐ vẫn chỉ mới dừng lại ở cấp độ thí điểm tại Việt Nam. Quyết định số 106/2006/QĐ-BNN tháng 11 năm 2006 của Bộ NN&PTNT là cơ sở để thực hiện các nỗ lực thí điểm lớn đầu tiên về LNCĐ, được thực hiện tại 40 xã của 10 tỉnh trong giai đoạn 2006-2009 với các kết quả hỗn hợp rõ ràng. Sau giai đoạn I, giai đoạn II của hoạt động thí điểm LNCĐ đã được Bộ NN&PTNT phê duyệt ngay trong tháng 4 năm 2012 và kéo dài đến cuối năm 2013 (Quyết định 717/QD-BNN). Giai đoạn II của hoạt động thí điểm LNCĐ đang được thực hiện tại 09 tỉnh (không bao gồm Quảng Bình). Giữa Bộ NN&PTNT và Tổng cục Lâm nghiệp Việt Nam không có sự đồng thuận về những mong muốn đối với LNCĐ - hiện có cả những người ủng hộ và không ủng hộ các ý tưởng về LNCĐ (thông tin trao đổi cá nhân). Nhiều lý do được đưa ra tại sao không nên “phổ biến” LNCĐ tại Việt Nam, chủ yếu liên quan đến niềm tin rằng các cộng đồng không ở vào vị thế có thể bảo vệ rừng, nhất là khi họ không có tư cách chính thức có thể cho phép họ phạt hoặc bắt giữ các đối tượng xâm phạm vào rừng. Những phản hồi này được các xã và cán bộ kiểm lâm từ Chi cục Kiểm lâm đưa ra. Một lý do chính không được nêu lên - lý do này tạo ra một khoảng trống lớn trong việc đảm bảo các yếu tố đảm bảo an toàn của REDD+ - đó là sự thiếu tin tưởng của các cán bộ vào khả năng quản lý rừng của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Với rất ít sự tin tưởng, người dân bản địa và cộng đồng địa phương gần như khó có thể tham gia vào các hoạt động bảo vệ rừng như đã được đề cập trong các biện pháp đảm bảo an toàn của REDD+, bảo vệ, cũng như khó có thể thu được các lợi ích từ việc thực hiện REDD+. Như vậy, tương lai của LNCĐ cũng liên quan trực tiếp đến tương lai của REDD+ ở Việt Nam, nhưng có rất ít các bên liên quan nhìn nhận việc này theo cách này. Các mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương đối với đất rừng đã bị ảnh hưởng bởi hai chương trình trồng rừng lớn được thực hiện trong quá khứ: Chương trình 327 được thực hiện trong những năm 1990 (Quyết định 327 ban hành năm 1992) và Chương trình 66115 kéo dài từ 1998

Hình 2: Giao đất giao rừng theo các bên liên quan: Việt Nam, 2010 (của IDLO, 2011)

15 Còn được biết đến với tên gọi Chương trình trồng 5 triệu ha rừng; Nghị quyết gốc được Quốc hội thông qua vào tháng 12 năm 1997 (08/1997/QH10); Quyết định đi kèm được ban hành vào tháng 07 năm 1998: Quyết định 661/QD-TTg. Cần lưu ý, bao gồm nghị quyết gốc, hiện có 07 văn bản pháp lý liên quan đến

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

11

trang 11.

17 UN-REDD (2010) Thiết kế hệ thống phân phối lợi ích tuân thủ theo REDD cho Việt Nam. Tuy nhiên, công việc trong báo cáo này được hoàn thành trước khi các quyết định chủ chốt được đưa ra tại COP 16, Cancun. 18 Có lẽ có thể dự đoán rằng trước khi các hệ số được áp dụng trên thực tế, mức lợi ích có thể đến được với hộ gia đình quá nhỏ và do đó mối quan tâm đến bảo vệ rừng cũng sẽ ở mức nhỏ! Xem báo cáo CIFOR số 75, Bối cảnh REDD+ tại Việt Nam: Nguyên nhân, tác nhân và các tổ chức (2012: 17 – 19).

đến 2010 (số hiệu của các chương trình được lấy theo số hiệu của Quyết định có liên quan). Trong quá trình thực hiện cả hai chương trình được thực hiện trên toàn quốc, người dân địa phương đã được cung cấp một lượng nhỏ tiền (50.000 đồng/ha/năm theo Chương trình 327, lên đến 100.000 đồng/ha/năm theo Chương trình 661) để bảo vệ và thậm chí để trồng rừng (việc trồng rừng thường được thực hiện theo hình thức độc canh dựa trên các hợp đồng với các LTQD đã nhận được một số lượng lớn ngân sách nhà nước theo các Chương trình 327 hoặc 661). Phụ nữ và đàn ông tại các thôn bản không được xem là những người quản lý rừng hoặc là các đối tác trong quản lý rừng mà là công nhân lâm nghiệp hợp đồng với một đơn vị quản lý rừng lớn hơn và được trả tiền công dựa theo quá trình lao động của họ. Sự khác biệt giữa việc người dân địa phương được giao đất rừng hoặc được cung cấp một hợp đồng quản lý đất rừng là một điều rất quan trọng gắn với lợi ích về REDD+. Ví dụ, nếu là những đối tượng được ký hợp đồng để trồng rừng, chỉ nhận được khoản thanh toán cho công lao động của họ từ một chủ rừng lớn hơn, thì gần như chắc chắc các biện pháp đảm bảo an toàn của REDD+ khó có thể mang lại các lợi ích đầy đủ cho các cộng đồng địa phương, mà chủ yếu chỉ mang lại các lợi ích cho các tổ chức lớn hơn. Hiện đang có những xung đột phát sinh tại Quảng Bình giữa người dân địa phương và các LTQD liên quan đến việc chia sẻ các lợi ích trong quá trình thực hiện các chương trình như Chương trình 661 (xem phần 5.1 dưới đây). Mặc dù vẫn có những thách thức trong việc thực hiện Chương trình 661, song nó vẫn cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị cho Việt Nam liên quan đến hệ thống chia sẻ lợi ích. Việc phát triển hệ thống chia sẻ lợi ích khả thi trong lĩnh vực lâm nghiệp đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của Bộ NN&PTNT, và đã được coi là một lĩnh vực ưu tiên đối với Kế hoạch Hành động quốc gia về REDD+. Các quy định pháp luật trước đây về chia sẻ lợi ích đất rừng đã được ban hành từ năm 2001 (Quyết định 178/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Quyết định được ban hành năm 2001 và sau đó là thông tư thực hiện được ban hành trong năm 2003 (Thông tư liên tịch 80/2003/TTLT/BNN-BTC) chưa bao giờ được áp dụng thực sự trong thực tế vì hầu như không ai có thể hiểu rõ Quyết định hoặc Thông tư hướng dẫn!16 Trong năm 2010, một báo cáo quan trọng đã được Bộ NN&PTNT xây dựng về hệ thống chia sẻ lợi ích thuộc chương trình UN-REDD với sự hỗ trợ sau đó của GTZ.17 Chính phủ cũng đã triển khai thí điểm chi trả DVMTR tại hai tỉnh có dự án thủy điện lớn: Sơn La và Lâm Đồng (tỉnh Lâm Đồng là tỉnh thí điểm UN-REDD+ Giai đoạn I) Theo nội dung chi trả DVMTR, các công ty cung cấp nước hoặc các đơn vị vận hành đập nước phải trả tiền nộp vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng của quốc gia hoặc của cấp tỉnh (được thành lập theo Nghị định 05/2008/NĐ-CP năm 2008) hoặc phải ký hợp đồng chi trả DVMTR trực tiếp với các chủ rừng. Chính phủ đã phát triển một hệ thống chi trả (theo dự đoán là phức tạp) dựa trên các biến trọng được gọi là các yếu tố K (Thông tư 80/2011/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNT), và liên quan đến các loại hình dịch vụ và các loại rừng.18 Hiện tại đang có các cuộc thảo luận về việc xây dựng các hệ số R áp dụng cho các chương trình chi trả về REDD+. Ý tưởng, và sự chú ý đến từng chi tiết, liên quan đến việc xây dựng một hệ thống chia sẻ lợi ích phù hợp đối với Việt Nam là rất ấn tượng. Tuy nhiên, một lần nữa, xu hướng chung có thể nhận thấy đó là chương trình này quá phức tạp khiến các cộng đồng địa phương không thể hiểu rõ và đòi hỏi quyền lợi của họ, và các cán bộ xã sẽ khó có thể giúp đỡ họ trong việc hiểu và áp dụng thực hiện hệ thống chia sẻ lợi ích nói trên! Với Luật Lâm nghiệp được ban hành năm 2004, kết hợp với các quyết định về chuyển đổi, cải cách LTQD, điều này có nghĩa là nhiều đất rừng hơn so với trước đây có thể được cho các hộ gia đình. Ngoài ra, như đã nói, đây là một đạo luật mang tính bước ngoặt cho phép giao đất giao rừng ở trên cấp hộ gia đình. Việc này về sau chính là cớ sở để ban hành các quyết định, thông chương trình 661, bao gồm 02 văn bản điều chỉnh và 03 thông tư. Điều này cho thấy “thực trạng” quá phức tạp liên quan đến hệ thống quy định và pháp lý của Việt Nam. 16 Xem báo cáo của Wode và Bảo Huy (2009) Nghiên cứu thực trạng lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam,

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

12

tư mới mô tả một cách khác nhau về việc đất rừng nên được phân bổ và giao như thế nào. Một quyết định quan trọng đã được ban hành đó là Quyết định 38/2007/QĐ-TTg về sắp xếp hành chính đối với giao đất giao rừng. Có lẽ Thông tư 38 có thể được dùng như là một ví dụ điển hình về một số những mâu thuẫn vốn có trong các quy định về rừng/đất rừng tại Việt Nam. Một mặt, Thông tư 38 ủng hộ sự tham gia của các hộ gia đình và cộng đồng, nhưng mặt khác nó đòi hỏi sự tham gia của một đơn vị tư vấn lâm nghiệp bên ngoài do UBND huyện chỉ định để tiến hành kiểm kê chi tiết đất lâm nghiệp được giao cho các thực thể khác nhau. Ý định tích cực ở đây đó là dừng lại các hoạt động giao đất giao rừng đã diễn ra nơi "rừng" trên đất rừng đã biến mất từ lâu (tức là, hầu hết các hộ đã được giao "đất trống"). Như vậy, trong khi người dân địa phương được mời tham gia vào các hoạt động giao đất giao rừng, đồng thời họ cũng như chính quyền địa phương sẽ không có đủ khả năng để thuê tư vấn để thực hiện kiểm kê rừng "một cách khoa học", và điều này sẽ không đảm bảo rằng người dân được giao đất rừng đủ chất lượng như yêu cầu. Do đó, mức độ thực hiện Thông tư 38 vẫn đang là một câu hỏi mở. Gần đây, Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT/BNNPTNT-BTNMT ban hành vào tháng Giêng năm 2011, trong số các vấn đề khác, đã tiến hành cập nhật nội dung của Thông tư 38, và cố gắng tạo sự gắn kết hơn giữa Bộ NN&PTNT và Bộ TNMT trong công tác giao đất giao rừng. Liệu Thông tư này có ảnh hưởng nhiều tới những gì xảy ra ở cấp địa phương hay không vẫn là một câu hỏi mở. Một vấn đề pháp lý có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện REDD+ đó là việc "cộng đồng" hoặc thôn bản là một thực thể được công nhận theo Luật Lâm nghiệp năm 2004, nhưng theo Bộ luật Dân sự năm 2005, "cộng đồng" không được coi là một pháp nhân, có nghĩa là họ không thể chính thức tham gia ký kết các hợp đồng và cũng không có tài khoản ngân hàng. Điều này có thể trở thành một trở ngại ảnh hưởng đến việc đảm bảo đủ điều kiện để các cộng đồng được nhận các khoản thanh toán từ REDD+ và/hoặc các lợi ích khác. Mặc dù hầu hết mọi người ở cấp địa phương sẽ không nhận ra điều này, song các cộng động có thể giải quyết vấn đề này bằng cách làm theo Nghị định 151/2007/NĐ-CP về việc thành lập hợp tác xã. Nghị định này không cấm người dân thành lập hợp tác xã và sau đó mở một tài khoản ngân hàng nếu cần thiết ví dụ như để nhận được các khoản thanh toán về REDD+. Trên tất cả, khung pháp lý về lâm nghiệp liên quan đến REDD+ nhấn mạnh đến việc quản lý phân cấp và ủy thác đối với đất lâm nghiệp đã được xây dựng sẵn, song việc thực hiện vẫn chủ yếu từ trên xuống và thường thiếu đi sự nhận thức đầy đủ hoặc thiếu đi các cán bộ có năng lực tại các cấp thực hiện. Thậm chí người dân các thôn bản nhận thức ít hơn về các quyền lợi và các quyền mà họ được phép khẳng định. Hơn nữa, mặc dù các dòng ngân sách đã được xác định ở cấp quốc gia trông có vẻ ấn tượng (ví dụ Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng được thiết lập với 100 tỉ đồng), nhưng đến lúc các dòng ngân sách này được phân bổ về đến các cấp địa phương, số tiền còn lại quá ít không đủ khả năng khuyến khích, thúc đẩy người dân “bảo vệ và phát triển” rừng. Do đó, có rất nhiều khoảng trống lớn cần được lấp đầy nhằm khiến cho khung pháp lý thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn REDD+ mang tính hỗ trợ hơn đối với những người thực hiện ở các cấp thực hiện. Một vấn đề quan trọng nhất ở đây đó là vấn đề quyền sử dụng đất rừng, bao gồm việc làm thế nào để đảm bảo rằng các cộng đồng được xác nhận là một thực thể pháp lý, làm thế nào để tránh việc bị bỏ sang một bên dưới hình thức hợp đồng giao khoán đất rừng, và làm thế nào để đảm bảo rằng các cộng đồng dân tộc thiểu số không tiếp tục bị tách ra khỏi các khu vực đất rừng truyền thống của họ (xem phần 2.2 dưới đây). Cuối cùng, hàng loạt các tài liệu pháp lý chi tiết về quản lý rừng hiện không tạo ra sự minh bạch trong quản trị rừng - thay vào đó, cho phép sự không minh bạch xảy ra, bởi vì các tài liệu pháp lý này cho phép các cán bộ ở các cấp khác nhau diễn giải các tài liệu pháp lý một cách tự do theo cách hiểu riêng của từng người. Mặc dù đã có quyết định về chuyển đổi cải cách các LTQD, song hiện không có cơ sở pháp lý nào ngăn cản các LTQD, khi thực hiện REDD+, tiếp tục kiểm soát các khu vực đất rừng lớn nhất và có chất lượng tốt nhất (bao gồm đất trồng rừng) hoặc thu được các lợi ích không đồng đều thông qua các hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng. Hiện đã có

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

13

nhiều tiếng nói lo ngại rằng các LTQD sẽ có thể sử dụng REDD+ như là một phương tiện để kiện toàn, thay vì từ bỏ, việc quản lý các khu vực rừng sản xuất tốt nhất của Việt Nam.19

2.2

Khung chính sách và pháp l ý về dân tộc thiểu số và vi ệc áp dụng thực hiện

Về mặt Hiến pháp (Hiến pháp 1992, được sửa đổi năm 2001), Việt Nam được công nhận là một xã hội đa dân tộc và tất cả các nhóm dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật và được bảo vệ không bị phân biệt đối xử.20 Thống kê dân số năm 2009 liệt kê ra 53 nhóm dân tộc thiểu số cộng với nhóm dân tộc Kinh là nhóm dân tộc thứ 54 song không có sự công nhận pháp lý về việc nhóm nào là nhóm dân tộc bản địa/thiểu số của Việt Nam. Nhiều khía cạnh pháp lý được trình bày ở phần trước đi thẳng vào vấn đề bảo đảm vấn đề sinh kế của các nhóm cộng đồng dân tộc thiểu số tại Việt Nam và đảm bảo các cơ hội để họ có thể hưởng lợi từ việc thực hiện REDD+. Các vấn đề về suy trì độ che phủ rừng và sinh kế của các nhóm dân tộc thiểu số bện vào nhau khá mạnh mẽ tại Việt Nam. Trong lịch sử và cho đến thời điểm hiện tại, nhóm người phụ thuộc vào rừng mạnh nhất chính là các nhóm đồng bào người dân tộc thiểu số. Không may, nhiều chính sách được thiết kế với ý tưởng tốt hướng đến việc hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số trên thực tế lại hướng họ vào mối quan hệ dựa vào trợ cấp xã hội với Nhà nước (Xem Hộp 1 dưới đây). Một trong những hy vọng chính để thay đổi xu hướng này chính là LNCĐ. Lâm nghiệp cộng đồng có tiềm năng rất lớn mang lại an ninh sinh kế tốt hơn cho cộng đồng dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng nếu so sánh với nhiều chính sách khác trong quá khứ và trong hiện tại được xây dựng với mục đích hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số. Việt Nam đã tham gia vào một trong các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người liên quan đến nhóm người bản địa/các nhóm dân tộc thiểu số: Công ước Quốc tế về xóa bỏ phân biệt chủng tộc. Việt Nam gia nhập Công ước này vào năm 1982 và đã đồng ý cam kết thực hiện các điều khoản và các quy định của Công ước này, bao gồm sự cần thiết phải báo cáo về việc Việt Nam tuân thủ các điều khoản của Công ước này như thế nào. Hiện có thêm 2 công ước quốc tế khác đặc biệt đề cập đến người dân bản địa: Công ước về Đa dạng sinh học năm 1992 mà Việt Nam là một thành viên từ năm 1993, và Công ước về các dân tộc và các bộ lạc bản địa của các quốc gia độc lập của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (Công ước kỹ thuật 169, có hiệu lực năm 1989), Việt Nam chưa ký Công ước này. Công ước 169 công nhận sự cần thiết phải chú ý tới các quyền con người của các nhóm dân tộc và các bộ lạc bản địa. Tuy nhiên, đến nay chỉ mới có 20 quốc gia đã phê chuẩn Công ước này. Liên quan đến các công ước cơ bản về quản trị và kỹ thuật nói chung của ILO, Việt Nam chỉ mới phê chuẩn một số ít công ước của ILPO - 19 công ước trong tổng số 177 công ước.21 Công ước về đa dạng sinh học có một điều khoản chính nhấn mạnh về người dân bản địa - 8(j) đề cập đến việc: tôn trọng, bảo tồn và duy trì kiến thức, các cải tiến và các tập tục của người dân bản địa và các cộng đồng địa phương có các lối sống truyền thống phù hợp với công tác bảo tồn và sử dụng bên vững đa dạng sinh học và khuyến khích việc áp dụng rộng rãi hơn với sự chấp thuận và tham gia của những người là chủ sở hữu các kiến thức, các cải tiến và các tập tục nói trên và khuyến khích việc chia sẻ công bằng các lợi ích phát sinh từ việc sử dụng kiến thức, các cải tiến và các tập tục nói trên. Điều khoản này cũng được đề cập lại trong các nội dung liên quan đến các biện pháp đảm bảo an toàn thực hiện REDD+. Việt Nam là một trong 144 quốc gia bỏ phiếu phê chuẩn Tuyên bố về Quyền của người dân bản địa của tổ chức Liên Hợp Quốc (UNDRIP) tại phiên họp của Hội đồng LHQ vào tháng 09 năm 2007. UNDRIP tuy là một tuyên bố của LHQ song không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý.

19 Về một tài liệu chung đề cập đến các rủi ro của việc tái tập trung quản trị rừng theo REDD+, xem tài liệu của Phelps và đồng sự (2010) “Liệu REDD+ có đe dọa đến việc tái tập trung quản trị rừng hay không?” Tạp chí Khoa học, Số 328, 16/4/2010. 20 Hiến pháp Việt Nam, Điều 5. 21 Nhìn chung, các nước ASEAN đang tụt lại phía sau so với các tiêu chuẩn quy định của Công ước ILO, do vậy, Việt Nam không “tụt lại sau” so với các quốc gia láng giềng.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

14

Xem

toàn

báo

ban

cáo

của

văn

Ủy

tại:

Tuy nhiên, nhiều bên có thể tranh luận rằng nội dung của Tuyên bố này tập trung vào người dân bản địa chỉ là sự phản ánh lại các điều khoản đã được nêu ra trong hàng loạt các hiệp ước và hiệp định quốc tế khác về quyền con người. Điều 26 của UNDRIP liên quan rõ ràng nhất đến các vấn đề về đất đai, được nêu như sau: 1. Người dân bản địa có quyền đối với đất đai, lãnh thổ và các nguồn tài nguyên mà họ đã sở hữu, chiếm dụng hoặc sử dụng hoặc thu được một cách truyền thống. 2. Người dân bản địa có quyền sở hữu, sử dụng, phát triển và kiểm soát đất đai, lãnh thổ và các nguồn tài nguyên mà họ có được vì lý do sở hữu truyền thống hoặc các hính thức chiếm giữ và sử dụng truyền thống khác, cũng như đất đai, lãnh thổ và các nguồn tài nguyên mà họ thu được theo các hình thức khác. 3. Các quốc gia sẽ công nhận về mặt pháp lý và bảo vệ đất đai, lãnh thổ và các nguồn tài nguyên. Việc công nhận này sẽ được thực hiện với sự tôn trọng các tập tục, truyền thống và các hệ thống quyền sở hữu đất của người dân bản địa có liên quan. Có một sự khác biệt quan trọng giữa nội dung của UNDRIP và Hiến pháp của Việt Nam. UNDRIP công nhận tính độc nhất của quyền sở hữu truyền thống và/hoặc quyền sử dụng đất của người dân bản địa. Hiến pháp Việt Nam công nhận sự bình đẳng của tất cả các nhóm dân tộc trước pháp luật, nhưng không nêu rõ bất cứ quyền lợi đặc biệt nào đối với các nhóm dân tộc thiểu số. Do đó, tất cả các văn bản pháp luật liên quan đến rừng và đất đai với vô số các quy định của Việt Nam được nêu ở trên áp dụng chung cho tất cả mọi người ở Việt Nam, cho dù họ là người Kinh hoặc là một trong 53 nhóm dân tộc khác trong cả nước. Các quyền đặc biệt của người dân bản địa/dân tộc thiểu số về đất đai không được công nhận khi tất cả đất đai được Nhà nước giao cho các cá nhân và các tổ chức khác nhau theo các điều khoản và điều kiện của Nhà nước.22 Thực tế là hàng ngàn hecta đất rừng ở Việt Nam có thể trước đây thuộc quyền sở hữu và quản lý truyền thống hoặc theo tập tục phong tục của các dân tộc thiểu số song không được thừa nhận, ngoại trừ một số vấn đề được đề cập rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật.23 Ví dụ, Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2020 đề cập rằng "Các hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn bản được giao, thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng trồng, đất lâm nghiệp và một số khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ quy mô nhỏ, phân tán, đã gắn bó lâu đời với các cộng đồng dân cư, theo quy định của pháp luật.“ Tuy nhiên, đồng thời, trên thực tế hiện vẫn chưa có sự công nhận đối với các hoạt động quản lý rừng truyền thống. Tất nhiên, điều này sẽ có ý nghĩa lớn đối với các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+ và mức độ người dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng có thể được hưởng lợi từ REDD+ nếu tình trạng đặc biệt của họ không được hiến pháp và pháp luật công nhận. Trên thực tế, dù đã có nhiều chính sách khác nhau hướng tới việc hỗ trợ đồng bào người dân tộc thiểu số, vẫn có nhiều điều cần phải quan tâm liên quan đến các ghi nhận về quyền của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Phản ứng của Ủy ban xóa bỏ phân biệt chủng tộc (CERD) tại Phiên họp thứ 80 được tổ chức vào tháng 03 năm 2012 đối với Báo cáo Quốc gia của Việt Nam cho thấy nhiều điểm quan ngại hơn là những lời khen ngợi. Các mối quan ngại mà Ủy ban đưa ra phù hợp với các vấn đề đảm bảo an toàn thực thi REDD+24 bao gồm những quan ngại sau đây:

22 Xem báo cáo của Luong Thi Truong và Orlando M. Genotiva (2011). Công nhận quyền sử dụng đất theo tập tục của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam và tại Philippines. 23 Tư vấn có bài trình bày các kết quả phát hiện ban đầu trong báo cáo này và có ý kiến rằng các LTQD hiện đang quản lý một phần đất của các đồng bào người dân tộc thiểu số mà không có sự đồng thuận của họ. Song không có ai trong phòng họp sẵn sàng chấp nhận quan điểm này. 24 http://www2.ohchr.org/english/bodies/cerd/docs/CERD.C.VNM.CO.10-14.pdf .

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

15

9. Uỷ ban quan ngại về việc thiếu thông tin về khiếu nại về hành vi phân biệt chủng tộc nộp cho tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác có liên quan, mặc dù liên tục có các báo cáo về sự phân biệt đối xử trên thực tế đối với các thành viên của nhóm thiểu số nhất định. Hơn nữa, trong khi lưu ý rằng Uỷ ban Dân tộc, một cơ quan cấp Bộ chịu trách nhiệm về phát triển chiến lược tổng thể và thực hiện chính sách của chính phủ về dân tộc, Uỷ ban lấy làm tiếc về việc thiếu một cơ chế khiếu nại toàn diện, hiệu quả và độc lập tại quốc gia. (Các điều 2, 4, 5 và 6). Điều này có nghĩa là không có thanh tra độc lập về việc người dân tộc thiểu số có thể khiếu nại liên quan đến các hành vi phân biệt đối xử hoặc vi phạm các quyền đã được công nhận, cũng liên quan đến quyền sử dụng đất. 15. Ủy ban lưu ý với sự quan tâm việc di rời những người thiểu số và tịch thu đất đai của tổ tiên mà không có sự đồng ý trước và bồi thường thích hợp cho đất đai bị tịch thu. (Điều 5). Điều này chỉ ra việc thiếu đảm bảo về quyền sử dụng đất cho người dân tộc thiểu số, và không đảm bảo nguyên tắc đồng ý trước (nguyên tắc tham vấn cộng đồng FPIC) trong trường hợp đất đai của họ bị chiếm đoạt. Điều này cũng có nghĩa là có những trường hợp các yêu cầu của người dân tộc thiểu số đối với đất đai không được tôn trọng. 19. Ủy ban quan ngại sâu sắc về thiếu sự thừa nhận bởi các quan chức nhà nước cũng như công chúng nói chung về sự tồn tại của phân biệt chủng tộc và sự bất bình đẳng giữa các nhóm sắc tộc, cũng như thái độ xã hội và khuôn mẫu định kiến tiêu cực chống lại người có nguồn gốc dân tộc thiểu số. (Điều 7). Điều này chỉ ra, cùng với những khó khăn khác, những khó khăn có thể xảy ra trong quá trình cố gắng thiết lập phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân nếu các quan chức chính phủ người Kinh không tôn trọng những người mà họ đang làm việc cùng. Một báo cáo viên độc lập về tình hình nhân quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cô Gay McDougall, đã cung cấp một báo cáo cho Hội đồng Nhân quyền Đại hội đồng LHQ phiên họp XVI vào tháng 01/2011.25 Trong đó, trong khi khen ngợi những nỗ lực rất tích cực của Chính phủ Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói của các dân tộc thiểu số, cô cũng bày tỏ các mối quan ngại nghiêm trọng cần phải được giải quyết nếu các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+ cần phải được tôn trọng và thực hiện tại Việt Nam. Trong số những vấn đề được đưa ra, cô đặt ra vấn đề về việc người dân tộc thiểu số bị từ chối tiếp cận sử dụng đất rừng (Đoạn 31). Cô đề cập đến thái độ phân biệt đối xử và kỳ thị liên tục của cả chính phủ và các cơ quan đoàn thể đối với người dân tộc thiểu số (Các đoạn 14 - 16). Những vấn đề này chắc chắn dẫn đến sự quan tâm sau đây (Đoạn 84):. . . các mối tương tác với các cộng đồng thiểu số có đặc điểm là thường xuyên được áp dụng theo các phương pháp tiếp cận từ trên xuống, không hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc tham vấn tự nguyện, báo trước và được cung cấp thông tin và có sự đồng thuận của các cộng đồng bị ảnh hưởng. Việc người dân bản địa/dân tộc thiểu số ở Việt Nam có mức độ nghèo sâu sắc hơn nhiều so với người Kinh đã được đề cập đến nhiều lần bởi các học giả, các tổ chức ODA, các tổ chức xã hội dân sự (CSO), các nguồn tin khác nhau của Chính phủ Việt Nam và Ủy ban xóa bỏ phân biệt chùng tộc - CERD trong phản ứng mới nhất của Ủy ban này đối với Báo cáo Quốc gia của Việt Nam. Trong quá trình tạo ra các cơ chế chính sách hướng đến việc thuyết phục người dân tộc thiểu số chuyển đổi sang "lối sống và sinh kế của người Kinh", các chính sách của Chính phủ chưa bao giờ công nhận đầy đủ những khó khăn kinh tế-xã hội và chính trị có ảnh hưởng đến các nhóm dân tộc thiểu số ở mức độ cấu trúc. Một giả định đơn giản và cơ bản của các chính sách nói trên đó là người dân nghèo vì họ sống ở vùng sâu vùng xa và thực hiện các hoạt động/tập tục "lạc hậu". Hơn nữa, các chính sách ít khi được thực hiện tốt ở cấp địa phương và phân bổ ngân sách cho một xã nghèo hiếm khi đủ để tạo được nhiều ảnh hưởng

25 Báo cáo này có tại http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/docs/16session/A-HRC-16-45- Add2.pdf

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

16

Lý do chính dẫn đến tình trạng nghèo cố hữu của người dân tộc thiểu số chính là các chính sách của Chính phủ Việt Nam trong quá khứ và hiện tại đối với đất đai và việc sử dụng đất lâm nghiệp của họ. Chính phủ đã có, và tiếp tục có các chính sách trực tiếp và gián tiếp khuyến khích các nhóm dân tộc thiểu số, đặc biệt là những người sống ở vùng sâu vùng xa, miền núi và vùng biên giới thay đổi hoàn toàn cuộc sống của họ và từ bỏ "tập quán canh tác lạc hậu" của họ. Trong thực tế, hầu hết các chính sách liên quan đến người dân tộc thiểu số tại các khu vực vùng đồi núi của Việt Nam đều có tính chất "định canh định cư" những người này ngay tại khu vực của họ.26 Trong năm 1968, Sở Định canh định cư được thành lập tại Hà Nội "để chuyển các cộng đồng du canh du cư sang định cư “cố định” (tức là, khuyến khích những người du canh di chuyển xuống vùng đồng bằng để canh tác lúa), và thuyết phục họ áp dụng phương pháp canh tác cố định (tức là, các tập quán canh tác của người dân vùng đất thấp). Chương trình định canh định cư [ban đầu] hướng đến khoảng 0,5 triệu người du canh du cư.” (Vien, 2006: 3). Thái độ và các chính sách đì kèm theo đối với hoạt động canh tác nương rẫy đã hướng đến việc buộc người dân tộc thiểu số từ bỏ tập tục này nhưng không hỗ trợ đầy đủ các lựa chọn thay thế khả thi khác về mặt kinh tế xã hội (và môi trường). Chiến lược phát triển lâm nghiệp 2006 - 2020 cũng đề cập một cách rõ ràng trong một số điều khoản về việc "giảm trừ" du canh, hoặc chuyển đổi đất canh tác nương rẫy sang các mục đích khác. Như vậy, Chính phủ Việt Nam đã duy trì chính sách hạn chế nhất quán đối với đời sống dân tộc thiểu số trong nhiều thập kỷ. Chính sách như vậy rõ ràng là không phù hợp với các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+. Du canh vẫn đang được thực hiện tại Việt Nam, bao gồm cả Quảng Bình. Tuy nhiên, với nhiều hạn chế áp đặt, tập tục này đang mất đi khả năng tồn tại của nó một cách nhanh chóng, trong khi việc thiếu các lựa chọn thay thế sẽ dẫn đến việc khoảng cách kinh tế-xã hội giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số sẽ tiếp tục tăng lên. Người dân tộc thiểu số được khuyến khích di chuyển từ các địa điểm miền núi xa xôi đến các địa điểm thấp hơn và ven đường, và bản của họ cũng được sáp nhập vào các thôn làng lớn, nơi tài nguyên đất nông nghiệp và đất rừng có thể không đủ để hỗ trợ người dân. Trong khi mọi người nói chung đang hài lòng với sự tiện lợi của việc các địa điểm mới ít xa xôi cách trở hơn, trong đó khả năng tiếp nhận các dịch vụ giáo dục và y tế tốt hơn, song điều này không có nghĩa là các lựa chọn sinh kế của họ được cải thiện nhiều. Việc các hộ gia đình trong khu vực miền núi tự di chuyển không được khuyến khích mạnh mẽ hoặc được coi là bất hợp pháp do người dân tộc thiểu số bị phủ nhận không được tiếp cận với các khu vực đất rừng truyền thống. Về việc ban hành quyền sử dụng đất, gia đình dân tộc thiểu số thường không nhận được Sổ Đỏ đất nông nghiệp đối với đất được sử dụng trong hệ thống đất bỏ hoang quay vòng vì những khu vực này được coi là đất lâm nghiệp. Bởi vì các khu vực này thường đươc quan lý chung theo cộng đồng, nên việc giao đất giao rừng cho các cá nhân và hộ gia đình sẽ không thể hiện được các ý nghĩa vốn có và sẽ phải có các khu vực lớn hơn được áp dụng QLRCĐ. Trong trường hợp xấu nhất, thậm chí đất rừng được gọi là "đất chưa sử dụng" có thể sẽ được giao cho bất kỳ các đơn vị đủ điều kiện để nhận được đất rừng. Như đã đề cập, các nhóm dân tộc thiểu số ở các vùng miền của Việt Nam đã bị giảm trừ khả năng tiếp cận những vùng đất truyền thống của họ mà không được tham khảo ý kiến trước.27 Như vậy, việc thực hiện nguyên tắc đồng thuận miễn phí, được báo trước và được cung cấp thông tin (nguyên tắc FPIC) vẫn còn nhiều điều phải làm, và sẽ cần phải có sự tham gia của các tổ chức dân sự độc lập (bên cạnh các tổ chức đoàn thể) để hỗ trợ

26 Các quan chức chính quyền thường đổ lỗi cho hình thức canh tác nương rẫy là nguyên nhân chính dẫn tới mất rừng tại VIệt Nam. Tuy nhiên, có bằng chứng ít “khoa học” hơn cho rằng canh tác nương rẫy thực sự là nguyên nhân chính dẫn tới mất rừng - quá trình canh tác nương rẫy trong thời gian dài cho thấy đây chỉ là hành động giảm trữ lượng tạm thời các khu vực rừng và do đó, với thời gian dài, hoạt động này không dẫn tới mất rừng và suy thoái rừng. Về việc phân tách carbon và duy trì đa dạng sinh học, có nhiều tranh luận tích cực liên quan đến quá trình canh tác nương rẫy xoay vòng thời gian dài khi đem ra so sánh với các hoạt động trồng rừng độc canh cây ngoại lai thường được áp dụng tại các địa phương. Riêng về quá trình canh tác quay vòng ngắn hạn chắc chắn sẽ dẫn đến mắt rừng do nó đại diện cho việc chuyển đổi đất rừng thành đất nông nghiệp. 27 Một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại vùng Tây Nguyên nơi người dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số được khuyến khích di cư đến khu vực này và tiến hành trồng cao su và cà phê, chuyển đổi hàng ngà hacta rừng tự nhiên để trồng độc canh các loài nói trên.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

17

việc cung cấp thông tin, và tổ chức các cuộc thảo luận với người dân, đặc biệt là các cộng đồng dân tộc thiểu số.

Hộp 1: Các chính sách và các chương trình hướng đến hoặc tác động đến người dân tộc thiểu số

Một số các chính sách, các quyết định và các chương trình chính ảnh hưởng đến người dân tộc thiểu số được liệt kê dưới đây. Trong thực tế, có nhiều quyết định và chính sách hơn nữa, song một số đã được sáp nhập, sau đó được tách và sáp nhập lại ở mức độ khó có thể phân biệt rõ các quyết định, các chính sách và các chương trình nói trên. - Quyết định số 03/QĐ-BNN của Bộ NN&PTNT, ngày 5/1/2005 cho phép các gia đình dân tộc thiểu số nghèo đặc biệt khó khăn khai thác gỗ để làm nhà (những hộ được xác định theo Chương trình 134 (xem bên dưới); - Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ. Một nghị định chung tái khẳng định sự hỗ trợ đặc biệt đối với các nhóm và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, cho phép họ duy trì các bản sắc văn hóa phù hợp với các định nghĩa của Nhà nước và của Đảng, và những nội dung khác. (Không chắc có Thông tư hướng dẫn thực hiện hay không). - Chương trình 30a (Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP). Hỗ trợ ngân sách cho 62 huyện được coi là nghèo nhất Việt Nam, trong đó có huyện Minh Hóa, Quảng Bình. Chương trình này dự kiến được thực hiện từ 2011- 2020. Ví dụ, các quỹ được sử dụng cho đến nay tại Minh Hóa được tập trung cho các hạng mục như cơ sở hạ tầng xã (cải thiện đường xá). - Chương trình 33 ("Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc định canh định cư (đối với các xã được lựa chọn theo chương trình 135, từ 2008-2012"): để hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số có nơi ở ổn định, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, góp phần bảo vệ rừng và môi trường sinh thái và giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội (chính sách định canh định cư). - Chỉ thị số 36/2000/CT-BNN-KL của Bộ NN&PTNT, ngày 06/04/2000 về việc quy vùng sản xuất nương rẫy nơi người dân có truyền thống canh tác nương rẫy, cho phép “quy vùng” làm nương rẫy cố định với diện tích đất từ 1 - 2 ha cho mỗi hộ gia đình. Do đó, đốt rừng làm nương rẫy bền ngoài khu vực “đã được quy vùng” là một hành động trái pháp luật. - Thông tư liên tịch số 52/2008/TTLTBNN-BTC, ngày 14/4/2008 hướng dẫn trợ cấp gạo cho đồng bào dân tộc thiểu só tại chỗ ở miền núi trồng rừng thay thế nương rẫy; dự kiến dùng ngân sách thuộc Chương trình 661 (đến năm 2010). - Quyết định 52/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2020. - Chương trình 134 (được kéo dài đến 2010 theo Quyết định số 1592): bao gồm việc giao đất nông nghiệp cho người dân tộc thiểu số, kể cả vì mục đích cải tạo đất; chuyển đổi đất rừng nghèo sang mục đích nông nghiệp; hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà; cung cấp đất làm nhà ở và xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt. - Chương trình 135 (cho một số xã được chọn, Giai đoạn II chính thức kết thúc năm 2010): Bao gồm một ngân sách đặc biệt lớn để xây dựng các hạng mục cơ sở hạ tầng khác nhau tại các xã có "hoàn cảnh đặc biệt khó khăn", mặc dù điều này xét theo định nghĩa sẽ bao gồm các khu vực biên giới và các xã "anh hùng". Hầu hết các xã được công bố theo Chương trình 135 (164/2006/QD-TTg) là những xã có tỷ lệ dân tộc thiểu số cao hơn (bao gồm hầu hết các xã vùng đệm/vùng lõi cảu VQG PNKB). - Chương trình 139 (đang diễn ra): Kiểm tra y tế miễn phí và chăm sóc sức khỏe thông qua việc cung cấp "thẻ bảo hiểm y tế". - Chương trình 167 (đang diễn ra): Chương trình xây dựng nhà cửa cho người nghèo, bao gồm các hộ gia đình người dân tộc thiểu số; - Chương trình 327 (1992 – 1998) Một chương trình tái trồng rừng với chiến lược tăng năng suất của đất trống đồi trọc (bằng cách sử dụng kỹ thuật canh tác được phát triển và trước đó được thực hiện ở các vùng đất thấp), để tiến hành "định canh" và "định cư", và thúc đẩy các hoạt động nông nghiệp thâm canh hơn (Vien, 2006). - Chương trình 661 (1998 – 2010): Một chương trình trồng rừng lớn khác, hướng đến chiến lược giảm canh tác nương rẫy (được thể hiện rõ qua Thông tư liên Bộ số 52 được đề cập ở trên).

Tóm lại, với một lịch sử hơn 40 năm tại Việt Nam (chưa kể các chính sách định canh định cư của chế độ thực dân), các chính sách hướng đến dân tộc thiểu số đã làm giảm bớt đáng kể các quyền cơ bản của người dân tộc thiếu số trong việc xác định các hoạt động sinh kế dựa trên các kiến thức và tập quán truyền thống của họ. Đây là một trong những lý do chính khiến tỷ lệ nghèo của người dân tộc thiểu số vẫn còn cao hơn nhiều so với dân tộc Kinh. Thay vì tạo ra các điều

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

18

kiện thuận lợi cho người dân tộc thiểu số có cuộc sống an toàn (cũng dựa vào các hoạt động canh tác nương rẫy nếu cần thiết), xu hướng của Chính phủ đó là cung cấp lương thực (lúa) và các hỗ trợ vật chất khác (chẳng hạn như nhà cửa). Kết quả là, người dân bản địa hiện nay thường được đa số coi là "thụ động và lười biếng". Ở Quảng Bình, người Kinh làm việc tại các cơ quan ban ngành cũng nói rằng người dân tộc thiểu số vẫn còn lạc hậu và không đủ trình độ. Đây là một trong những mối quan ngại đã được nêu ra tại Đoạn 19 (Ủy ban xóa bỏ phân biệt chủng tộc - CERD) đã nêu ở trên về việc thái độ phân biệt đối xử đã ăn sâu vào tiềm thức khiến đa số người Kinh thậm chí không nhận ra rằng họ đang có những hành động phân biệt đối xử. 28 Vì vậy, để tuân thủ các yếu tố đảm bảo an toàn thực thi REDD+, các chính sách và các chương trình của Việt Nam đối với người dân tộc thiểu số sẽ đòi hỏi phải có bước chuyển rõ rệt. Như sẽ được thảo luận dưới đây, một cách để tạo sự thay đổi nói trên đó là phải giao đất lâm nghiệp nhiều hơn nữa cho toàn bộ cộng đồng thực thiện các hoạt động QLRCĐ, và sau đó hỗ trợ họ một cách đầy đủ để tối ưu hóa lợi ích cho cả bản thân các cộng đồng nói trên và môi trường tự nhiên. Việc thực hiện REDD+ và các biện pháp đảm bảo an toàn của nó sẽ không mang lại sự thay đổi theo yêu cầu, song nếu thực hiện REDD+ một cách nghiêm túc - với việc cung cấp thông tin minh bạch và đáng tin cậy cho cộng đồng quốc tế, điều này có thể có khả năng góp phần nâng cao quyền lợi của người dân tộc thiểu số phụ thuộc vào rừng trong cả nước

3.

Tổng quan về tình hình sinh kế và đói nghèo tại khu vực vùng đệm VQG PNKB 29

Các xã vùng đệm của VQG PNKB chủ yếu là các xã nông thôn, và các phương án sinh kế của địa phương chủ yếu là nông nghiệp, ngoài ra còn có các hoạt động liên quan đến rừng (phần thảo luận chỉ tiết ở Chương 4), đi làm thuê cho các hộ gia đình khá giả hơn hoặc cho các Lâm trường quốc doanh, hoặc đi ra các tỉnh khác để tìm việc (trường hợp này thường xảy ra với các khu vực người Kinh). Người lao động di cư tại các xã vùng đệm thường không được đào tạo và thiếu các kỹ năng để tìm được công việc phi nông nghiệp phù hợp, trong khi người dân tộc thiểu số ít khi dám rời khỏi làng bản để tìm kiếm cơ hội việc làm ở nơi khác. Trong khi tình hình mỗi xã có thể khác nhau, đa số người dân các xã vùng đệm phải chịu cảnh sinh kế không đảm bảo và thiếu nghiêm trọng đất phục vụ mục đích sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp hiện có trong khu vực là khá nhỏ, khiến người dân không có cơ hội thử nghiệm các loài giống mới hoặc tìm kiếm các loài giống thay thế. Đối với các nhóm đồng bào người dân tộc thiểu số tại vùng đệm là những người chủ yếu sống dựa vào phương thức du canh du cư, việc thiếu đất canh tác là do các tác động của các chính sách được áp dụng, khi họ được yêu cầu phải “xoay vòng” diện tích canh tác nương rẫy khi mà diện tích này không thể canh tác bền vững được.30 Các cán bộ của Chi cục Kiểm lâm cho biết họ được giao trách nhiệm “quy vùng” canh tác nương rẫy, nhưng hiện không có ngân sách thậm chí để thí điểm tại 1 xã trong tỉnh. Trong nhiều trường hợp, người dân bị mất đất vào tay các LTQD, các BQLRPH và VQG PNKB bởi vì các khu vực canh tác nương rẫy của họ đều nằm trong diện tích đất của các LTQD và được phân loại là “rừng”. Đối với một số trường hợp khác, người dân mất đất đai do họ được tái định cư tại các bản làng lớn hơn gần đường cái. Mặc dù không thể nói một cách chính xác, song đại đa số người dân các bản dân tộc thiểu số (khoảng 2.800 hộ gia đình tại khu vực vùng đệm) vẫn phụ thuộc ở một mức độ nhất định vào hoạt động canh tác

28 Ngân hàng Thế giới (2009: 46) Phân tích xã hội quốc gia cũng chỉ ra các khó khăn mà các nhóm dân tộc thiểu số gặp phải do những nhận định sai lầm và rập khuôn tiêu cực từ phía nhóm người Kinh. 29 Phần lớn nội dung của chương này dựa trên báo cáo “Nghiên cứu về Giới, đói nghèo và dân tộc thiểu số tại các xã vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quảng Bình” được hoàn thành vào tháng 12 năm 2011 do Rita Gebert và Trang Hiếu Tường thực hiện. 30 Đây là phần phân tích của tôi dựa trên những gì các nhóm nông dân người dân tộc thiểu số cung cấp cho chúng tôi trong các cuộc phỏng vấn: họ bị buộc phải giảm diện tích canh tác nương rẫy quay vòng trong thời gian 5 năm. Sau khi bị giảm diện tích can tác nương rẫy, họ nhận thấy sản lượng giảm mạnh, và tình hình sâu bệnh tăng nhanh.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

19

nương rẫy có chu kỳ quay vòng ngắn bên cạnh các nguồn thu nhập từ các hoạt động sinh kế gắn với việc khai thai hợp pháp và bất hợp pháp các nguồn tài nguyên rừng và từ nguồn thu nhập làm công lao động hàng. Có một số lượng lớn các hộ gia đình người dân tộc thiểu số được xã Trường Sơn (Quảng Ninh) và các xã của các huyện Bố Trạch và Minh Hóa cấp phát gạo với số lượng tùy thuộc vào ngân sách hiện có của các xã nói trên. Mặc dù có các khu vực đất đai nhỏ trong vùng đệm, song người dân ở đây đang dần dần chuyển từ tự cung tự cấp sang ngày càng nhiều hơn hình thức trang trại định hướng thị trường. Nhiều nông dân người Kinh hơn so với người dân tộc thiểu số định hướng các hoạt động sản xuất theo thị trường. Sổ Đỏ quyền sử dụng đất được cấp cho đất nông nghiệp, nhưng chỉ dành cho các khu vực "định canh định cư," và do đó chưa được cấp cho các khu vực canh tác nương rẫy. Sổ Đỏ đất rừng cũng được ban hành trên cơ sở hộ gia đình đối với rừng sản xuất. Các khu đất rừng được giao thường khá nhỏ (1-2 ha trong những năm gần đây), và hầu hết các hộ gia đình ngay lập tức muốn trồng cây keo trên đất rừng vì họ xem đó là một phương thức chắc chắn và tương đối nhanh chóng giúp họ kiếm được một số thu nhập từ các hoạt động dựa vào đất. Việc giao đất nông nghiệp (đối với trồng trọt hàng năm) đã chấm dứt tại các huyện mà nhóm đã đến làm việc. Ngoại lệ duy nhất cho điều này đó là việc giao đất rừng, phần nào đó giải thích sự nhiệt tình cao của cộng đồng địa phương trong việc giao đất giao rừng. Vùng đệm bị hạn chế hoặc không tiến hành trồng lúa nước và điều kiện thủy lợi hạn chế, do đó, những thôn bản trồng lúa hai vụ nhìn chung sẽ có điều kiện kinh tế tốt hơn so với các thôn bản có các khu vực trồng lúa song không có hệ thống tưới tiêu hoặc thậm chí sử dụng nước trời.31 Nhóm đã đến thăm sáu trong số các xã vùng đệm và thấy rằng nguyên nhân của nhiều vấn đề kinh tế và môi trường khác chắc chắn là do thiếu đất sản xuất nông nghiệp. Tại sáu xã nhóm đã đến thăm trong năm 2011 và 2012, chỉ có một số ít thon bản thực sự có đất trồng lúa, và do đó chỉ có một số ít hộ gia đình được tiếp cận với diện tích đất trồng lúa này. Hơn nữa, tại các thôn bản của các xã Hưng Trạch, Xuân Trạch và Trường Sơn, một số siện tích đất nông nghiệp ở vùng thấp đã bị mất do lũ quét và sạt lở bờ sông. Tình trạng lũ lụt và xói mòn được quy cho các hoạt động quản lý đất rừng kém hiệu quả của các LTQD, trong đó có nạn phá rừng và suy thoái rừng ở khu vực đầu nguồn. Vùng đệm không có các loại cây trồng có giá trị cao (đậu lạc và sắn được đa số người dân coi là loài mang lại giá trí kinh tế cao nhất trong vùng). Tại các khu vực xa xôi hơn như Hóa Sơn, Dân Hóa, Thượng Hóa và Trường Sơn, chủ yếu ngô và sắn được trồng và được coi là cây trồng tự cung tự cấp của người Kinh và người dân tộc thiểu số. Việc chăn nuôi gia súc nuôi như một lựa chọn sinh kế chính được áp dụng thực hiện theo quy mô khác nhau tại các xã, chủ yếu là do những hạn chế về tiếp cận đất đai và đất rừng. Một vấn đề khác đó là sự khó khăn trong việc làm hàng rào bảo vệ ruộng đồng hoặc bãi thả nhằm hạn chế chăn thả động vật lớn. Đã có nhiều báo cáo về việc động vật lớn phá hoại cây keo và cây cao su (và người dân phải chi trả các thiệt hại cho chủ sở hữu rừng trồng). Đối với Việt Nam nói chung, tỉ lệ nghèo32 tại Quảng Bình phần lớn đều tập trung ở các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, và Quảng Bình là một trong những tỉnh nghèo của Việt Nam. Theo số liệu hiện có ở xã,33 tất cả các xã có tỉ lệ dân tộc thiểu số cao đều có tỉ lệ nghèo cao. Đối với sáu xã có tỉ lệ dân tộc thiểu số tối thiểu 50%, tỉ lệ nghèo trên 78%. Tỉ lệ nghèo của Quảng Bình trong năm 2011 là 25% (Sở LĐ-TB-XH), trong khi tỉ lệ nghèo của Việt Nam là 14% (Bộ LĐ-TB-XH). Xem Bảng 01 để biết thêm chi tiết.

31 Sản lượng lương thực thấp được thể hiện qua số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2011 cho thấy sản lượng lương thực bình quân đầu người của Quảng Bình chỉ là 313 kilo/người, trong khi mức trung bình của quốc gia là 504 kilo/người. 32 Tỉ lệ nghèo tại Việt Nam dựa trên mức thu nhập và được Bộ LĐ-TB-XH ấn định cùng với quết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Mức trần tỉ lệ nghèo khu vực nông thôn giai đoạn 2011 – 2015 được ấn định ở mức 400.000 đồng/người/tháng (tăng lên so với mức 200.000 đồng giai đoạn trước đó). Mức nghèo cho hộ “cận nghèo” khu vực nông thôn là 401.000 – 520.000. 33 Đây là số liệu năm 2011, Sở LĐ-TB-XH không thể cung cấp số liệu 2012 tại thời điểm viết báo cáo này.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

20

Bảng 1: Số hộ nghèo và cận nghèo tại vùng đệm và vùng lõi, 201134

Huyện Xã Hộ nghèo (Số hộ) Tổng số hộ gia đình (Số hộ) Hộ nghèo (%) Hộ cận nghèo (%)

Minh Hóa

Trung Hóa Dân Hóa Trọng Hóa Hóa Sơn Thượng Hóa

Tổng vùng đệm Tổng các xã huyện Minh Hóa

Bố Trạch

Hưng Trạch Phúc Trạch Sơn Trạch Tân Trạch Thượng Trạch Phú Định Xuân Trạch

1,224 716 685 347 702 3,674 11,129 2,725 2,498 2,549 64 440 682 1,309 10,267 42,500 Hộ cận nghèo (Số hộ) 392 7 18 72 70 559 1,895 469 528 400 0 5 36 237 1,675 4,505 58.0 91 89 68 79 75 65 28 68 33 100 97 16 66 47 22 710 649 608 235 552 2,754 7,283 776 1,709 852 64 425 112 869 4,807 9,241 32 1.0 3.0 21 10 15 17 17 21 16 0 1.0 5 18 16 11

911 0 53 481 0 Trường Sơn

Tổng vùng đệm Tổng các xã huyện Bố Trạch Vùng đệm Quảng Ninh Tổng các xã huyện Quảng Ninh Tổng các xã vùng đệm 22,523 14,852 5,068 2,234 24 54 5,435 8,042 23 15

Ghi chú: Nguồn: Sở LĐ-TB-XH. Tỉ lệ phần trăm được làm tròn lên hoặc xuống (số liệu gốc có số thập phần 02 chữ số). Số liệu về dân số là số liệu tháng 01 năm 2011, không phải là số liệu thống kê chính thức. Các xã được bôi xám cho biết các xã này có hơn 50% dân số là người dân tộc thiểu số. Hiện tại, có 62 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh của Việt Nam được nhận các nguồn quỹ hỗ trợ giảm nghèo bổ sung trong 12 năm (2009 – 2020) theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP được phê duyệt tháng 12 năm 2008. Theo Chương trình này, huyện Minh Hóa được đưa vào danh sách các huyện nghèo do tỉ lệ nghèo của huyện trên 50% và là huyện nghèo nhất của Quảng Bình. Theo số liệu của Bảng 1, tỉ lệ nghèo chung của các xã vùng đệm nằm ở mức 54% trong năm 2011, với thêm 15% các hộ “cận nghèo”. Cùng với chương trình 135 được thực hiện trước Chương trình 30a, các hoạt động được thực hiện theo Nghị quyết 30a chủ yếu được sử dụng cho cơ sở hạ tầng (ví dụ xây đường bê tông vào xã Hóa Sơn). Tuy nhiên, các cán bộ của Minh Hóa mà nhóm tư vấn đã làm việc trong năm 2012 cho biết ngân sách phân bổ cho huyện ít hơn so với mong đợi và sẽ dần ít đi trong tương lai. Do vậy, ý tưởng sử dụng các nguồn quỹ thuộc Chương trình 30a cho các hợp đồng bảo về rừng của BQLRPH đối với các hộ nghèo gần như không thể thực hiện được. Mức độ dễ tổn thương của các hộ gia đình đối với các yếu tố giá cả, thời tiết, sâu bệnh hoặc các cú sốc khác dường như có xu hướng tăng ở Quảng Bình. Điều này một phần được phản ánh trong số liệu thống kê về tỉ lệ nghèo của Sở LĐ-TB-XH về các hộ gia đình "cận nghèo" ở các xã. Có nghĩa là, khi tỷ lệ hộ gia đình nghèo và cận nghèo được cộng với nhau, tỉ lệ này đạt trên 50% 34 Số liệu nghèo huyện Bố Trạch 2012 được công bố vào tháng 12 năm 2012: Tình hình nghèo đó của các xã vùng đệm được cải thiện với số hộ nghèo giảm xuống, ngoại trừ xã Thượng Trạch giữ nguyên ở mức 97%. Số liệu tổng thể mới của các xã vùng đệm như sau: Tổng số hộ: 10.878 trong đó 4.201 hộ nghèo (39%) và 1.950 hộ cận nghèo (18%). Số tổng của huyện cũng cho thấy sự cải thiện: 17% số hộ là hộ nghèo và 11% là hộ cận nghèo (tổng số hộ 44.197).

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

21

tại 10 trong số 13 xã trong năm 2011 (xem Bảng 01 ở trên). Do đó, thách thức lớn cho việc thực hiện REDD+ ở các cấp địa phương sẽ là việc phải đảm bảo rằng những lợi ích từ REDD+ thực sự đến được với các cộng đồng nghèo phụ thuộc vào rừng. Trên thực tế, ở xã Trường Sơn, cán bộ xã nói rằng tỷ lệ người dân tộc thiểu số sống trong nghèo đói đã tăng lên trong vài năm qua, và lý do thiếu đất nông nghiệp chính là lý do chính dẫn đến thực tế này. Họ cũng chỉ ra rằng việc thiếu đất nông nghiệp không chỉ là do địa hình của xã, mà còn vì lý do quá nhiều đất đai hiện được quản lý bởi các LTQD (Trường Sơn và Khe Giữa).

4.

Tầm quan trọng của rừng và đất rừng đối với sinh kế của người dân địa phương

Nghiên cứu này là một nghiên cứu mang tính định tính. Do đó, rất khó để cung cấp thông tin chính xác về ví dụ như tỷ lệ phần trăm của gỗ và lâm sản ngoài gỗ (LSNG) trong việc xác định các hoạt động sinh kế tổng thể của người dân. Điều này đòi hỏi các cuộc phỏng vấn hộ gia đình có chiều sâu và kéo dài với số lượng mẫu lớn các hộ gia đình tham gia (từ các tầng lớp kinh tế và nhân khẩu học khác nhau trong thôn), với các nhóm người dân tộc và các khu vực khác nhau và mất nhiều thời gian hơn so với thời gian được bố trí để thực hiện đợt tư vấn này. Chúng tôi cũng nhận ra từ các cuộc điều tra thực hiện trong năm trước đó và trong năm nay rằng có sự biến động hàng tháng và hàng năm liên quan đến các hoạt động sinh kế cụ thể của người dân khiến họ khó có thể nêu một cách chính xác bao nhiêu phần trăm sinh kế của họ dựa trên những nguồn gì.35 Ví dụ, nếu người dân đã thu thập và bán cây mây bảy hay tám tháng trước đây nhưng từ đó trở lại đây họ không thu thập và bán cây mây nữa thì họ sẽ không đưa thông tin vào trong phần đánh giá sinh kế của họ (nếu như câu hỏi đặt ra liên quan đến sinh kế trong vòng 06 tháng trở lại đây). Vì vậy, nhóm tư vấn chủ yếu trình bày các thông tin theo xu hướng chứ không theo các con số tuyệt đối khi thể hiện các vấn đề về sinh kế của các cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cố gắng ước tính việc sử dụng gỗ tại các địa phương. (Xem thêm các bản ghi thực địa được nêu tại Phụ lục 06 cung cấp một số chi tiết về việc sử dụng gỗ) Vấn đề về việc sinh kế của người dân địa phương phụ thuộc trực tiếp vào các khu vực có rừng đến mức độ nào đã được đặt ra trong đợt nghiên cứu sinh kế tại vùng đệm VQG PNKB được tổ chức năm ngoái. Trong năm nay, nhóm đã xem xét vấn đề này một lần nữa và thấy rằng không có một câu trả lời tiêu chuẩn cho vấn đề này, mặc dù đó là sự thật khi nói rằng tất cả các thôn bản đều phụ thuộc vào rừng hoặc đất rừng để đảm bảo sinh kế của họ cho dù họ có kiếm được nhiều thu nhập từ lâm sản hay không. Điều này là đúng cho dù chúng ta đang nói về các thôn người Kinh ở vùng hạ du hoặc các bản dân tộc thiểu số. Vì tính di động và sự phức tạp của mạng lưới kinh doanh lâm sản bất hợp pháp ngày càng gia tăng, khoảng cách giữa các cộng đồng với rừng có thể không đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến sự phụ thuộc cùng chính cộng đồng đó đối với rừng khi nói về các hoạt động sinh kế. Tuy nhiên, sự khác biệt chủ yếu giữa nhóm người Kinh và các nhóm người dân tộc thiểu số chính là việc sử dụng đất được phân loại chính thức là "đất lâm nghiệp." Người dân tộc thiểu số thường canh tác trên từng khu vực nhỏ để trồng cây theo mùa, đặc biệt là gạo. Hoạt động "định canh định cư" theo không gian đang được áp dụng hiện nay khi người dân thực hiện các hoạt động canh tác nương rẫy đã không dẫn đến sự suy giảm hiện tượng “lấn chiếm rừng” để tồn tại. Hơn nữa, khi người dân tộc thiểu số được cung cấp cơ hội để kiếm được tiền mặt cần thiết thông qua các hoạt động khai thác gỗ bất hợp pháp trong diện tích do các LTQD - những người đã lấy đi các khu vực canh tác nương rẫy truyền thống của họ - quản lý, hầu như không có gì ngạc nhiên khi người dân không từ chối những lời đề nghị như vậy.36 Tuy nhiên, có một mối liên kết rõ ràng giữa sinh kế không được đảm bảo và tình trạng suy thoái rừng ở vùng đệm: người dân chỉ có hai hướng chính để chuyển sang các hoạt động ngoài nông 35 Là một tư vấn tự do, tôi có sự đồng cảm đối với việc này! 36 Báo cáo Ngân hàng Thế giới (2010:17) về Thực thi pháp luật về rừng đề cập đến: “hầu hết đất rừng chịu sử quản lý nhà nước kém hiệu quả và nhiều người dân tại các khu vực miền núi không được tiếp cận các nguồn tài nguyên rừng một cách hợp pháp.”

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

22

nghiệp để giảm khả năng tổn thương trong cuộc sống của họ: vào rừng và di cư. Tình trạng thiếu đất nông nghiệp và đất rừng ở các xã vùng đệm đang khiến cho cả người Kinh và người dân tộc thiểu số "không có lựa chọn nào khác" ngoài việc phải khai thác rừng để lấy gỗ để bán lấy tiền trang trải cho các nhu cầu về thực phẩm và nhu cầu sinh kế khác. Như vậy, tình trạng thiếu đất cấp tính dẫn đến sinh kế không an toàn và dễ bị tổn thương đối với gia đình người nông dân trong khu vực vùng đệm chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái rừng ở Quảng Bình. Phụ nữ và đàn ông người dân tộc thiểu số và người Kinh nói rằng họ miễn cưỡng tham gia vào việc khai thác gỗ bất hợp pháp để đảm bảo vấn đề sinh kế của họ. Với điều kiện hiện nay, họ nói rằng họ có ít các phương án sinh kế thay thế khả thi. Người dân tại các thôn người Kinh và các bản người dân tộc thiểu số cũng xác nhận rằng việc khai thác tài nguyên rừng của họ có các tác động tiêu cực đến sự sẵn có của các loài gỗ có giá trị, lâm sản ngoài gỗ, củi và thậm chí là các loài động vật hoang dã. Họ cũng thừa nhận rằng tăng trưởng dân số đang gây áp lực lên các nguồn tài nguyên đất và rừng (tài liệu đệ trình VQG PNKB là Di sản Thiên nhiên Thế giới cho thấy dân số vùng lõi/vùng đệm chỉ có khoảng 52.000 người cách đây 11 năm, và bây giờ dân số của khu vực này đã là khoảng 65.000 người). Đối với người dân các thôn người Kinh và các bản người dân tộc thiểu số, sự quan tâm lớn nhất được dành cho hoạt động giao đất lâm nghiệp như là một phương án duy nhất, tương đối chắc chắn, có thể tạo ra các nguồn thu nhập bổ sung. Khai thác lâm sản (ví dụ, gỗ có giá trị) là một hoạt động có tiềm năng thấp và có nguy cơ cao tại thời điểm hiện tại. Mọi người sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao (lãng phí sức lao động của mình nếu bị phạt tiền và bắt giữ) tham gia vào hoạt động khai thác gỗ trái phép do giá các loại gỗ cứng đặc biệt quý hiếm đã tăng vọt trong những năm gần đây.37 Do các hoạt động QLRCĐ vẫn chưa được hoàn tất tại vùng đệm tại thời điểm tư vấn viết báo cáo này (vẫn chỉ mới dừng lại ở giai đoạn đầu tại một số thôn bản thí điểm), cũng như việc các quá trình giao đất giao rừng định kỳ vẫn chưa quan tâm đến việc giao đất rừng chất lượng tốt cho cộng đồng địa phương, nên việc người dân tiếp cận hợp pháp và bảo đảm đến tài nguyên rừng vẫn nhiều hạn chế. Thật vậy, ở một bài thuyết trình được thực hiện trong năm 2008 của Cố vấn trưởng và các cán bộ của dự án GTZ Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên miền Trung Việt Nam (SMNR-CV) tại Quảng Bình tại thời điểm đó, họ chỉ ra rằng một vấn đề lớn đó là đất rừng được giao trong tỉnh với chất lượng nghèo, chưa kể đến việc đất rừng được giao với tốc độ cao, đồng nghĩa với việc chưa có quy hoạch sử dụng hoặc mở rộng đất lâm nghiệp. Vì vậy, các cộng đồng địa phương không có cơ hội để khai thác một cách hợp pháp gỗ trưởng thành từ rừng sản xuất tự nhiên. Nếu người dân địa phương thu hoạch cây từ đất rừng mà họ có Sổ Đỏ, các loài cây này thường là các loài cây như keo, bạch đàn hay thông mà bản thân họ đã trồng 10-12 năm trước đó.

4.1

Gỗ và củi

Các hộ gia đình vùng đệm phụ thuộc nhiều vào gỗ. Ví dụ, hầu như 100% các gia đình phụ thuộc vào việc thu gom củi để nấu ăn và sưởi ấm. Hơn nữa, tất cả các hộ gia đình đòi hỏi phải có gỗ phục vụ các mục đích sử dụng trong gia đình: hàng rào, chuồng trại nuôi nhốt gia súc nhỏ và lớn, các đồ đạc đơn giản, xây dựng nhà cửa, các công cụ làm nông, cọc trồng tiêu (hiện được thay bằng cây sống), v.v... Nếu không có nguồn cung cấp gỗ tại địa phương, các hộ gia đình vùng đệm dù là dân tộc thiểu số hay Kinh sẽ không thể tồn tại dược. Do các hộ gia đình thiếu tiền mặt và phải sống dựa vào các khoản ứng trước được cung cấp bởi các thương nhân và các chủ tiệm khác nhau, họ đặt ưu tiên cao vào việc giữ chi tiêu tiền mặt của họ ở mức tối thiểu cho bất kỳ các mặt hàng có thể có tại địa phương. Vì vậy, miễn là họ có thể khai thác các nguồn tài nguyên tại địa phương cho các nhu cầu trong gia đình, họ sẽ làm như vậy. Liên quan đến thu nhập tiền mặt từ gỗ, có hai nguồn thu nhập chính: các công việc khác nhau trong chuỗi giá trị khai thác gỗ bất hợp pháp hoặc các hoạt động khai thác gỗ tự trồng, chủ yếu là cây keo ở Quảng Bình. Một phần ba nguồn thu gián tiếp là tiền lương lao động hàng ngày làm 37 Xem báo cáo gần đây nhất về Cơ quan Điều tra môi trường (2012) Nguồn gốc sự phá hủy: Việc buôn bán gỗ trái phép của Trung Quốc.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

23

cho các LTQD nhưng chủ yếu liên quan đến những người sống gần nhất với các LTQD. Có một nhu cầu thường xuyên và cao đối với các nhà máy dăm gỗ keo hoặc ván ép chủ yếu ở tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, "dăm gỗ keo" thường có giá không cao và các nhà sản xuất nhỏ thường bị thiệt thòi bởi họ không có khả năng khai thác gỗ ngay tại khu đất của chính mình. Do đó, các hộ gia đình hầu như chỉ bán gỗ đứng hiện có tài khu vực trồng của họ cho một thương nhân và người thương nhân này ước tính khối lượng gỗ và sau đó đưa cho chủ rừng một khoản chi trả tương đối thấp cho toàn bộ khu rừng trồng bởi vì sau đó người thương nhân này sẽ khai thác toàn bộ gỗ. Nhóm làm thuê của thương nhân sẽ cắt và bóc tách vỏ cây, chứ không phải là chủ rừng (xem hình ảnh dưới đây). Trên thực tế, một số người dân địa phương đề cập đến việc làm thuê theo ngày thông qua việc khai thác keo cho các thương nhân.

Nhóm làm thuê của thương nhân bóc tách vỏ cây keo tại xã Hưng Trạch

Mặc dù trên thực tế có nhiều thương nhân mua gỗ đứng, song có một sự chênh lệch lớn về giá cả theo thông tin mà người dân cho biết về số tiền họ nhận được khi bán keo. Trong khi chất lượng và mật độ cây keo đứng chắc chắn là một yếu tố xác định giá, có vẻ như cách các thương nhân đối xử với những người nông dân và kiến thức của những người nông dân về cách định giá cây keo sẽ là một yếu tố khác giúp xác định giá keo. Nếu người nông dân không biết rõ cách đánh giá số lượng và chất lượng của khu trồng keo của họ, họ có thể nhận được mức giá thấp cho số keo của họ. Có vẻ như vị trí xa xôi cũng đóng một vai trò ở đây trên hai khía cạnh: các thương nhân sử dụng khoảng cách như một cái cớ để đưa ra một mức giá thấp (điều này đặc biệt đúng nếu có khó khăn trong việc tiếp cận các khu vực rừng không nằm sát đường), cộng với việc vùng sâu vùng xa có ít thương nhân đến múa khiến người dân không thể đưa ra một mức giá cao hơn so với thương nhân khác. Trong chuyến thăm làm việc của nhóm tư vấn tại xã Trường Sơn, người Vân Kiều ở đây nói rằng họ sẽ không bận tâm đến việc chăm sóc khu trồng keo bởi vì họ đã biết rằng thương nhân sẽ mua keo với giá thấp nên họ không muốn lãng phí công lao động của mình. Với việc khai thác keo chỉ có thể thực hiện một lần sau 6 năm, điều quan trọng rõ ràng là việc người dân phải biết cách mặc cả để có được mức giá bán tốt nhất có thể. Nhóm tư vấn thu nhận được những thông tin về mức giá rất thấp (các trưởng bản tại xã Thượng Hóa cho biết họ chỉ nhận được 8 triệu đồng cho khoảng 20ha keo trong năm 2009 và điều này cho thấy khu vực trồng keo có vấn đề nghiêm trọng về chất lượng, hoặc là họ bị thương nhân lừa với giá thấp hoặc là họ tính sai diện tích khu vực trồng keo hoặc là vì cả 03 nguyên nhân nói trên!). Tại bản Bãi Dinh xã Dân Hóa, nhiều người đã bán keo với giá từ 5 đến 48 triệu đồng mỗi hộ gia đình tùy theo số lượng cây; dù rất khó tính toán cụ thể, song tại Bãi Dinh, ước tính mỗi hộ thu được 08 triệu đồng/ha, và đây vẫn là một con số thấp.38 38 Xem nghiên cứu của Chris Wheatley và Dai Peters cho SNV (2008). Nghiên cứu này liên quan đến Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 147/2007/QĐ-TTg khuyến khích và hỗ trợ trồng rừng sản xuất tại các khu vực khó khăn. Một số các điều khoản được điều chỉnh tại Quyết định 66/2011/QĐ-TTg.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

24

Không thể tính toán được tầm quan trọng của việc khai thác gỗ bất hợp pháp đối với các hộ gia đình một cách chính xác. Thứ nhất, có sự khác biệt giữa các hộ gia đình trong cùng một thôn bản về mức độ phụ thuộc vào việc khai thác gỗ bất hợp pháp. Ví dụ, tại một thôn bản của xã Hưng Trạch, những người tham gia thảo luận nhóm lớn khẳng định rằng 90% hộ gia đình của họ (tức là, hầu như tất cả các hộ gia đình có lao động nam có thể lao động) tham gia khai thác gỗ bất hợp pháp để tồn tại. Tại một thôn bản khác, họ đã tính toán rằng con số này khoảng 30%. Tại một thôn bản khác, có người nói rằng "hầu hết" các hộ gia đình tham gia, trong khi có những người khác nói chỉ có một số ít tham gia (ít hơn năm hộ gia đình). Để làm phức tạp thêm vấn đề, khai thác gỗ bất hợp pháp là một hoạt động chủ yếu trong thời gian nông nhàn. Dự án GTZ SMNR-CV hỗ trợ trước đây tại trong Quảng Bình ước tính rằng người dân của huyện Tuyên Hoá và Minh Hoá phụ thuộc đến 40% các hoạt động sinh kế của mình vào đất lâm nghiệp. Đôi khi câu trả lời của người dân được thêm các sắc thái ý nghĩa khác khi nói rằng họ biết khai thác gỗ trộm là trái phép và đôi khi có cảm giác "tội lỗi" khi họ đang hủy hoại rừng. Ấn tượng của chúng tôi đó là có khả năng tình trạng khai thác gỗ bất hợp pháp được người dân báo cáo với con số thấp hơn so với thực tế. Người dân địa phương có một số nhiệm vụ chính trong việc buôn bán gỗ bất hợp pháp. Nhiệm vụ đầu tiên là tìm kiếm gỗ mà thương nhân vùng hạ du hoặc các đối tượng trung gian muốn tìm; nhiệm vụ thứ hai là chặt cây; nhiệm vụ thứ ba là xẻ cây đã chặt thành các tấm ván theo yêu cầu của các thương nhân và nhiệm vụ thứ tư là khuân vác các tấm ván, hoặc để trâu kéo, đến một nơi thuận tiện cho các thương nhân bỏ lên xe của họ. Vì lý do chính đáng, có lẽ, người dân không muốn tiết lộ chính xác nơi họ cắt và/hoặc mang gỗ. Các nhiệm vụ chính xác mà đàn ông, và một số phụ nữ, làm trong rừng được xác định bởi các thương nhân (xem phần thảo luận dưới 5.3). Chúng tôi đã nghe từ những người dân tộc thiểu số ở Dân Hóa và Hóa Sơn rằng họ không khai thác gỗ nhiều vì họ không có cưa máy (họ chỉ có cưa dài hai người cưa, xem hình bên dưới từ Lào), nhưng họ giúp tìm các loài cây và khuân vác gỗ ra các khu vực xe ô tô có thể tiếp cận được. Đây là loại hợp đồng lao động giúp người dân kiếm được khoảng 150.000 đồng mỗi ngày. Tuy nhiên, một số người dân địa phương có cưa máy riêng. Nếu họ sở hữu cưa máy, họ chắc chắn sẽ tự đi khai thác gỗ, thường dựa trên "đơn đặt hàng" từ các thương nhân. Nhóm cũng nhận được thông tin (tại xã Trường Sơn) rằng người dân Vân Kiều được đưa tạm ứng trước bằng hiện vật từ thương nhân bao gồm cưa máy và gạo. Mặc dù có những ngoại lệ, song nhiều người nói rằng khi họ đi tìm gỗ họ sẽ dành khoảng 2-3 ngày trong rừng mỗi lần đi gỗ. Người dân tại xã khác (Xuân Trạch) cho biết mỗi lần đi gỗ họ đi trong vòng một tuần và có thể kiếm được khoảng 1,5 triệu đồng tùy thuộc vào loại gỗ mà họ có thể tìm thấy. Tuy nhiên, những người dân khác (tiếp tục là tại Trường Sơn) cho rằng họ đi vào sâu trong rừng trong vài tuần để tìm gỗ có giá trị cao hơn cho các thương nhân. Việc khai thác gỗ có chọn lọc theo mô tả của người dân cho thấy mạng lưới buôn bán gỗ được tổ chức khá tốt. Khi người dân chọn để đi đến các khu vực có rừng hoặc là để chặt hoặc khuân vác gỗ bất hợp pháp, họ cũng có thể đi khá xa. Các khu vực rừng họ đi đến không nhất thiết phải là một phần của VQG PNKB, nó có thể là khu vực rừng của các LTQD hoặc của các BQLRPH, hoặc thậm chí là của các nước láng giềng. Với việc xe máy được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, và với việc có một mạng lưới đường bộ tốt hơn nhiều (ví dụ như đường Hồ Chí Minh chạy qua Quảng Bình), người dân có thể đi khá xa trước khi bắt đầu đi bộ vào rừng. Do đó, rất khó để trả lời câu hỏi đặt ra trong điều khoản tham chiếu về khoảng cách từ các thôn bản đến các khu vực khai thác cây. Đối với một xã xa xôi như Trường Sơn, người dân nhiều khả năng phải đi bộ từ nửa ngày đến một ngày để tìm cây gỗ tốt; đối với một xã như Xuân Trạch, người dân sẽ sử dụng xe máy và đi khoảng 20 km.39

39 Chúng tôi nhìn thấy nhiều trường hợp người dân đi xe máy chở những tấm gỗ khá lớn, có thể là vừa được khai thác trái phép, song không có cơ hội để chụp ảnh những người đang khai thác trái phép.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

25

Cưa tay hai người cưa vẫn được sử dụng phổ biến tại vùng nông thôn Việt Nam (ảnh minh họa được chụp tại Lào) Liên quan đến việc khai thác gỗ chọn lọc mà họ đang làm, ngoại trừ một số ngoại lệ, người dân chó biết ngày càng khó tìm thấy các loài gỗ có giá trị gần các thôn bản của họ, dù là trong khu vực của VQG PNKB hay của các LTQD. Và điều này đặc biệt đúng đối với hai xã mà đoàn đến làm việc tại huyện Bố Trạch. Trong hầu hết các trường hợp, người dân có xu hướng đi các nơi mà họ vẫn còn có thể tìm thấy gỗ chất lượng tốt hơn đang được các thương nhân tìm kiếm. Đối với họ, không quan trọng chủ rừng là ai dù là VQG PNKB, LTQD hay BQLRPH, chưa nói đến là rừng phía bên kia biên giới Lào. Trong mọi trường hợp, người dân thôn Đông Giang cho biết, giá các loài gỗ có giá trị đã tăng lên rất nhiều (đồng nghĩa với việc loài gỗ đó trở nên hiếm hơn) và vẫn đáng giá để những người đàn ông trong thôn cố gắng tìm kiếm bán cho những người buôn bán gỗ. Họ nói rằng họ với việc là người dân địa phương thường được ký hợp đồng để mang gỗ ra đến tận rìa rừng, nơi họ được trả tiền.

Hộp 2: Việc dịch chuyển địa phương phát thải khí nhà kính - Xuất khẩu suy thoái rừng

Những người đàn ông tại ít nhất là một trong những xã vùng đệm đã và đang gây ra "việc dịch chuyển địa phương phát thải khí nhà kính" trước khi tiến hành bất kỳ hoạt động REDD+ nào tại Việt Nam! Đó là, như những gì chúng tôi đã phát hiện ra vào năm 2011 và đã có xác nhận của các quan chức UBND xã Hưng Trạch và của chính người dân vào năm 2012, một nhóm nhỏ những người đàn ông trẻ và trung niên từ các thôn bản khác nhau đã đi sang Lào, Campuchia và thậm chí cả Myanmar để tìm kiếm các loài gỗ có giá trị, bao gồm trầm hương, Huê và Lim, và họ bán gỗ thông qua một mạng lưới của thương nhân/nhà thầu người Việt Nam. Các nhà thầu đến các làng tìm kiếm những người đàn ông có thể sẵn sàng làm việc trong vài tháng, và thậm chí lâu hơn, để săn lùng gỗ có giá trị trong khu vực. Cũng những nhà thầu đó đón những người đàn ông sẵn sàng và đưa họ bằng xe tải đến các khu vực rừng có khả năng khai thác ở các nước khác. Người dân địa phương sẵn sàng mạo hiểm mạng sống và chân tay trong quá trình săn trộm gỗ tại các nước láng giềng bởi vì sinh kế tại địa phương của họ không được đảm bảo. Không ai trong số người dân chọn làm công việc này nếu không thực sự cần thiết.

Mặc dù chúng tôi không thể xác định chính xác lượng gỗ mà người dân trong khu vực khai thác bất hợp pháp, song rõ ràng là những gì họ khai thác để bán hơn nhiều so với khối lượng mà họ cần để sử dụng trong gia đình (xem Bảng 2 bên dưới). Mặc dù người dân đang ở dưới cùng của chuỗi giá trị gỗ, khi họ bán gỗ, họ vẫn có thể nhận được từ 4,5 - 14 triệu đồng/m3 tùy thuộc vào loại gỗ, vị trí bán gỗ, và có thể họ cũng đã nhận được các khoản ứng trước bằng tiền mặt hoặc vật chất từ các thương nhân. Người dân Vân Kiều ở xã Trường Sơn nói rằng đối với một tấm

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

26

ván gỗ xây dựng chất lượng thấp hơn, họ sẽ nhận được 400.000 đồng (tấm ván dài 1m, rộng 30 cm và dày 15 - 20 cm). Tại một bản người Vân Kiều khác mà nhóm tư vấn đã đến thăm vào năm ngoái, người dân ở đó cho biết họ vẫn có thể tìm thấy gỗ lim dù rằng hầu như những người khác đều cho biết không còn gỗ lim để khai thác nữa. Điều đáng quan tâm, những người này không phải là người khai thác. Họ nói rằng họ mua nó từ những người khai thác gỗ "độc lập" trong rừng sâu với giá 150.000 đồng mỗi ván gỗ nhưng sau đó mang nó ra đến tận rìa rừng và bán cho thương nhân vùng hạ du với giá 580.000 đồng/ván gỗ (với kích thước hoàn toàn khác với những gì được đề cập ở trên: dài 3 m, rộng 20 cm và dày khoảng 5 cm). Bản đặc biệt này hầu như không có đất nông nghiệp chính thức và mọi người nói lâm trường (có lẽ là Trường Sơn) đã lấn chiếm diện tích canh tác nương rẫy của họ, vì bản này đã được lập tại đây từ giữa những năm 1960 (lâu hơn nhiều so với LTQD nói trên). Trong năm năm vừa qua, họ nói rằng diện tích canh tác nương rẫy "cố định" của họ bị co hẹp rất nhiều khiến họ phải lựa chọn tham gia vào hoạt động kinh doanh khai thác gỗ bất hợp pháp để kiếm sống. Các thương nhân từng thu mua cây mây của họ không tiếp tục thua mua cây mây nữa dù rằng mây vẫn còn có sẵn trong rừng. Họ cũng nói rằng thương nhân khuyến khích họ thay đổi từ thu gom mây để bán sang đi gỗ vì đi gỗ hấp dẫn hơn và mang lại giá trị cao hơn. Tiêu thụ củi: Tất cả người dân đều dùng củi để nấu ăn và sưởi ấm, nhưng người dân một thôn người Kinh nơi chúng tôi phỏng vấn mẫu (Thanh Bình 3) vẫn bán củi. Những người phụ nữ ở đây trong đợt khảo sát năm 2011 có nói với chúng tôi rằng nếu họ không thể bán củi, họ sẽ không thể mua được gạo, nhưng trong lần khảo sát lần này (2012), họ nói rằng số gia đình bán củi đã giảm mạnh do củi không còn nhiều nữa. Khoảng cách đến các khu vực có thể thu gom củi - khu vực rừng của xã lân cận - quá xa không đáng để họ đi gom củi vì giá bán một bó củi chỉ là 20.000 đồng/bó). Những người phụ nữ cũng bị khiển trách vì xâm lấn rừng. Chỉ có rất ít một số phụ nữ người Kinh ở Hưng Trạch nói rằng họ cũng sử dụng bếp bgas để nấu ăn, và gas vẫn chưa được coi là một loại nhiên liệu thay thế. Chính quyền xã Hưng Trạch đã đề cập đến một số thôn (nhóm không đến phỏng vấn những thôn này) nơi phụ nữ làm than củi để bán. Những người phụ nữ tại xã Hưng Trạch làm than để bán chủ yếu sống ở các thôn nơi không có đất trồng lúa. Tại thôn Đông Giang xã Hưng Trạch, phụ nữ nói với nhóm rằng họ đã từng làm than củi để bán, nhưng họ dừng không làm tham củi cách đây khoảng 05 năm vì diện tích có loài cây gỗ để làm than củi đã giảm nhiều. Ngày nay, nếu họ cần than, họ mua than từ một xã gần đó với giá 150.000 đồng/túi 25 - 30 kg.

Phụ nữ thu thập củi để bán tại xã Thanh Bình 3, Hưng Trạch. Trong khi hầu hết phụ nữ không có đề cập đến những khó khăn trong việc thu thập củi, có một số thôn bản đang có xu hướng giảm mạnh nguồn cung cấp củi (điều này đã được đề cập tại xã Xuân Trạch và Hưng Trạch là hai xã không có đất lâm nghiệp).40 Điều này sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu các LTQD cấm không cho người dân vào các khu vực rừng của mình để lấy củi.

40 Tại một, hai thôn của xã Xuân Trạch, người dân đề cập đến một số loài cây gỗ họ muốn sử dụng để làm than củi do các đặc tính cháy của chúng, song các loại cây này ngày càng khó kiếm.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

27

Hiện nay ở một số xã, củi được lấy từ các LTQD (thu gom các cây đổ hoặc các cành cây được cắt bỏ trong quá trình tỉa thưa, chăm sóc rừng) hoặc từ các khu vực trồng keo chuẩn bị thu hoạch (người dân sẽ cắt và thu gom các cành nhánh không cần thiết). Tại hầu hết các thôn bản, lấy củi là công việc của các thành viên trong gia đình, mặc dù phụ nữ có xu hướng thu gom củi nhiều hơn đàn ông. Tại một thôn, nơi người dân vẫn có thể tiếp cận với một khu vực rừng có chất lượng khá, họ nói rằng đàn ông trong thôn cắt các cây gỗ khá lớn để làm củi. Số lượng củi cần thiết trong một năm thay đổi từ thôn bản này sang thôn bản khác, nhưng kết quả các cuộc thảo luận giữa chúng tôi với người dân cho thấy số lượng củi được sử dụng khoản từ 5-7 ste/hộ/năm lên đến 8-10 ste/hộ/năm. Ngoại trừ một thôn tại Hưng Trạch, như đã đề cập ở trên, không có thôn bản nào khác tham gia vào đợt phỏng vấn này làm than củi để bán. Các số liệu được tổ chức FFI thu thập trước đó trong năm 2008 (Bảng 2 bên dưới) cho thấy một số kết quả tương tự như kết quả khảo sát của nhóm chúng tôi (ngoại trừ trường hợp tiêu thụ củi cao không thể giải thích được tại xã Xuân Trạch!). Việc sử dụng gỗ cho tiêu dùng trong gia đình không phải là quá cao. Ví dụ, một gia đình sẽ không xây dựng nhà cửa hoặc làm đồ nội thất mới mỗi năm. Tất nhiên, việc sử dụng củi sẽ thường xuyên hơn. Giả sử một hộ gia đình không có nhu cầu làm nhà hoặc đồ nội thất trong một năm cụ thể nào đó, thì nhu cầu sử dụng gỗ của hộ gia đình, ngoại trừ than củi, chỉ khoảng 0,3- 0,4 m3.

Bảng 2: Nhu cầu gỗ hộ gia đình hằng năm tại các xã vùng đệm, 2008

Sản phẩm rừng

Thượng Hóa (m3)

Trọng Hóa (m3)

Trung Hóa (m3)

Dân Hóa (m3)

Sơn Trạch (m3)

Xuân Trạch (m3)

1.52

3.51

2.93

2.10

1.47

4.33

Thượng Trạch (m3) Tre nứa

Gỗ 0.75

Gỗ xây dựng Gỗ làm đồ gia dụng

0.66 0.23

0.82 0.59

0.74 0.58

0.78 0.48

1.09 0.52

0.23 0.92

0.07 0.80

0.50

0.35

0.24

0.12

0.46

0.35

0.00

Gỗ là chuồng gia súc Gỗ làm chuồng nuôi lợn, gà Hàng rào (cọc)

1.45

1.07

1.54

1.05

1.01

1.15

1.41

Củi (Đ.vị: Ste)

9.23

7.43

11.58

9.49

9.24

16.68

6.36

Tre nứa (cọc)

800

Tổng

13.58

23.66

13.77

14.03

13.79

9.39

17.62 Ghi chú: Bảng này được sao chụp từ đợt khảo sát của FFI tại VQG PNKB trong năm 2008. Bốn xã đầu tiên đều của huyện Minh Hóa, ba xã sau của huyện Bố Trạch. Dựa trên bản chất việc sử dụng gỗ, không thể nói rằng mỗi hộ gia đình đều sử dụng cùng một số lượng gỗ được nêu trong bảng cho tất cả các năm!

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

28

Các khối gỗ tại địa phương: để làm nhà hay để bán? Chuồng gà có được làm thường xuyên hay không?

4.2

Giao đất giao rừng, rừng trồng và quản l ý rừng cộng đồng

Nhiều người dân đang rất quan tâm đến quá trình giao đất lâm nghiệp trong vùng đệm, và muốn được giao đất để tạo thu nhập. Đất rừng có thể được giao với thời hạn lên đến 50 năm, với tối đa 30 ha giao cho một hộ gia đình. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một con số ấn định liên quan đến diện tích đất lâm nghiệp có thể được giao cho một cộng đồng, và con số này dường như không dựa trên bất kỳ một công thức đặc biệt dù rằng nên xây dựng một kế hoạch quản lý rừng năm năm. Theo dự án Khu vực PNKB sẽ tiến hành một số hoạt động thí điểm về LNCĐ, trong đó ba thôn bản sẽ được giao đất rừng với diện tích chênh lệch khá lớn: từ 215 ha tại bản Cổ Tràng (khoảng 59 hộ gia đình) tại xã Trường Sơn đến khoảng 900 ha cho thôn Phú Minh ở xã Thượng Hòa (khoảng 30 hộ). Một trong những thách thức đối với công tác giao đất giao rừng đó là sự miễn cưỡng rõ ràng từ phía các công ty lâm nghiệp/lâm trường quốc doanh trong việc bàn giao đủ lượng số lượng đất rừng cho các xã để giao lại cho các thôn bản. Tại thôn 9 của xã Xuân Trạch, ví dụ, chỉ có 37 ha đã được giao cho 126 hộ ( trên thực tế chỉ có 23 hộ gia đình được nhận diện tích đất rừng này). Thôn này chỉ có 41 ha đất nông nghiệp (trong đó có 7 ha lúa) được phân bổ cho rất nhiều hộ gia đình. Do đó, các cuộc xung đột nảy sinh liên quan đến việc xác định ai sẽ là người được nhận bao nhiêu đất rừng - kết quả giao đất giao rừng được quyết định bởi hình thức "bốc thăm"41, không xem xét đến các điều kiện kinh tế xã hội trong thôn. LTQD Bố Trạch, hiện vẫn đang quản lý hơn 10.000 ha, chỉ bàn giao 195 ha cho xã (và đồng ý giao thêm một khu vực khoảng 500 ha gây tranh cãi; xem phần 5.1 dưới đây). Tại thôn 9, người dân dự đoán họ sẽ được nhận thêm 80 ha đất rừng từ diện tích 195 ha được đề cập ở trên. Trong thực tế, đây cũng là một trường hợp xung đột lớn giữa người dân và các LTQD. Thật vậy, dường như tại tất cả các thôn bản được giao đất giao rừng gần đây đều tiến hành giao đất theo hình thức bốc thăm. Chúng tôi nghe nói rằng cán bộ địa chính xã chỉ dùng bút vẽ các đường thẳng trên bản đồ tại văn phòng xã để xác định các lô đất sẽ được giao, và sau đó tất cả 41 Mỗi hộ gia đình có mong muốn được giao đất rừng bỏ số hiệu của gia đình mình vào trong một cái hộp. Sau đó sẽ bốc thăm số hiệu của các hộ gia đình cho từng lô đất rừng đã được xã đánh số.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

29

mọi thứ khác sẽ được quyết định một cách tình cờ. Chúng tôi được biết tại một thôn của xã Hóa Sơn, cán bộ xã đã vẽ các lô đất gần với thôn nhỏ hơn và các lô đất xa hơn to hơn. Người dân cho biết họ đã thực hiện một số "sắp xếp lại" đối với các lô đất được giao giữa những người dân với nhau sau khi tiến hành bốc thăm, một phần do các lô đất không có ý nghĩa nhiều về đặc điểm tự nhiên, và một phần do các hộ gia đình muốn quản lý các khu vực khác nhau. Một vài người được giao loại đất lâm nghiệp và vị trí họ không muốn đã bán đất cho người dân khác trong thôn. Giao đất rừng từ trước cho đến nay chỉ mới được thực hiện cho các cá nhân ở Quảng Bình, với một số trường hợp ngoại lệ về việc giao đất giao rừng cho một số nhóm sử dụng thông qua các hoạt động các hoạt động của dự án SMNR-CV trước đây hoạt động trên địa bàn tỉnh. Hiện có sổ đỏ đối với đất rừng hộ gia đình tại Quảng Bình. Tuy nhiên, tư vấn không thể tìm hiểu chính xác có bao nhiêu ha đã được giao cho bao nhiêu hộ gia đình. Có tài liệu cũ của dự án GTZ An toàn Lương thực cho biết khoảng 42 - 43.000 ha đã được giao cho 11.000 hộ gia đình (thực hiện trong khoảng từ 1996-2002 tại Quảng Bình) và khoảng 5.400 ha được giao tại Minh Hóa và Tuyên Hóa trong khi thực hiện dự án SMNR-CV. Bên cạnh những đơn vị lớn như các LTQD, hầu như tất cả các Sổ Đỏ đất lâm nghiệp đều được giao cho các hộ, và ít được giao cho các nhóm hộ gia đình và các cộng đồng. Một số nỗ lực hạn chế đã được thực hiện để cấp Sổ Đỏ cho nhóm hộ và cộng đồng trong quá khứ, nhưng không may, các hoạt động thí điểm LNCĐ ban đầu (không thuộc về bất kỳ xã nào trong số các xã vùng đệm) vẫn chưa mang lại những lợi ích và bài học kinh nghiệm cụ thể (để có thể xem xét áp dụng sau này). Đối với rất nhiều các thôn bản người dân tộc thiểu số, sẽ có ý nghĩa hơn nếu giao đất giao rừng một nhóm hộ hoặc cho cả cộng đồng vì bản thân người dân vẫn theo định hướng mang tính cộng đồng lớn hơn, so với định hướng cá nhân, trong các hoạt động sinh kế của họ. Những cộng đồng như vậy không chỉ có thể quản lý chung các vùng đất, mà họ cũng biết cách làm thế nào để chia sẻ lợi ích hợp lý giữa các thành viên của cộng đồng. Như đã đề cập, QLRCĐ tại Việt Nam sau khoảng 14 năm "thử nghiệm" vãn chỉ dừng lại ở mức độ thí điểm. Không có lý do tại sao QLRCĐ không thể được thực hiện rộng rãi hơn tại các xã vùng đệm và vùng lõi của VQG PNKB nơi các đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống. Các khu vực rừng do các cộng đồng quản lý có thể bao gồm các bộ phận rừng sản xuất và rừng phòng hộ, với các khu vực rừng phòng hộ áp dụng việc chi trả DVMTR (hoặc chi trả theo REDD+) với các mức giá hợp lý cho các cộng đồng (để việc chi trả DVMTR hấp dẫn hơn đối với họ). Các phương thức thanh toán cho các khu vực rừng sản xuất sẽ phải bao gồm việc chi trả "có sự tham gia" nếu các khu vực này có quá ít triển vọng về khai thác gỗ hoặc lâm sản ngoài gỗ. Đây là những yêu cầu tối thiểu đối với việc thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn nhằm thực thi REDD+ và giúp người dân địa phương có được các lợi ích đầy đủ. Không thể giả định rằng chỉ vì người dân được giao đất lâm nghiệp mà họ sẽ có thể thu lợi từ nó. Trong quá trình điều tra của chúng tôi trong cả hai năm 2011 và 2012, chúng tôi phát hiện ra rằng có rất nhiều hộ dân đã nhận đất rừng nhưng không có phương tiện để đầu tư vào nó. Phần chính của vấn đề ở đây đó là chất lượng của đất rừng đã được giao từ các LTQD cho các xã và sau đó là cho các hộ gia đình thường rất kém - giống đất trống hơn là đất lâm nghiệp. Ví dụ, người dãn xã Hóa Sơn phàn nàn rằng đất rừng họ đã được giao gần đây chủ yếu chỉ có cây bụi và cây nhỏ, và có rất ít cây lớn. Một số người trong số họ cho biết họ không thể làm bất cứ điều gì với nó, ngoại trừ việc để cho gia súc ăn cỏ ở đó. Nguy cơ ở đây đó là theo quy định của pháp luật về phát triển rừng và các quy định khác hiện hành, Nhà nước có quyền thu hồi lại đất rừng không được sử dụng theo quy hoạch sử dụng đất và rừng của xã. Điều này có thể không xảy ra trong thực tế, nhưng nó tiềm ẩn một yếu tố không an toàn cho các hộ nghèo không có đủ tiền mặt để đầu tư vào đất rừng đã được giao. Họ có thể sẽ bán tất cả hoặc một phần đất rừng của họ. Hơn nữa, quy hoạch sử dụng đất và rừng của xã có thể mâu thuẫn với kế hoạch sử dụng đất theo tập tục của các thôn bản.42

42 Điều này cũng sẽ là một nguy cơ đối với quá trình tái tập trung đất rừng theo REDD+. Nhà nước có thể sẽ thu hồi lại đất rừng và giao lại cho các bên khác, ví dụ như là các lâm trường quốc doanh.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

30

Người dân có đất rừng thường trồng, hoặc muốn trồng, cây keo trên đó. Trong khi trồng độc canh cây keo trong vùng đệm của VQG PNKB là không chính đáng về mặt đa dạng sinh học, về việc duy trì hành lang động vật hoang dã và mục đích tương tự, đối với các cộng đồng địa phương, việc lựa chọn trồng keo là một phương án duy nhất hợp lý về mặt kinh tế khi họ được giao một khối lượng lớn đất trống. Nếu họ bỏ hoang đất để tái sinh tự nhiên, họ có thể sẽ không thu được lợi ích trước 20 năm. Hơn nữa, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có cơ chế chia sẻ lợi ích rõ ràng trong trường hợp người dân chưa thực hiện đầu tư vào đất lâm nghiệp của mình, hoặc trong trường hợp người dân đã nhận được trợ cấp từ các nguồn lực của chính quyền các cấp. Một điểm khác làm tăng thêm sự không chắc chắn đó là người dân không bao giờ có thể chắc chắn rằng chính phủ sẽ không thu hồi lại đất để phục vụ cho các mục đích khác. Đây là một lý do khác khiến người dân không muốn phải chờ đợi quá lâu để có được những lợi ích tối đa từ bất cứ các hoạt đầu tư mà họ có thể thực hiện được. Như đã đề cập, nhóm tư vấn cũng nghe nói về trường hợp các thôn bản nghèo "bỏ hoang" đất rừng được giao đơn giản chỉ vì họ không có phương tiện để đầu tư vào nó.43 Mọi người sẵn sàng bảo vệ diện tích rừng, nhưng trong trường hợp an ninh sinh kế không được đảm bảo, điều này sẽ phải được thực hiện với các cơ chế chi trả DVMTR thích hợp hoặc trên cơ sở chia sẻ lợi ích, đồng quản lý với các đơn vị như các Ban quản lý rừng và các LTQD. Có lẽ vấn đề lớn nhất ở đây đó là không có đủ sự tin tưởng giữa các cộng đồng địa phương và các đơn vị nói trên. Hơn nữa, nhiều nông dân cho biết họ không còn quan tâm đến các hợp đồng bảo vệ rừng bởi vì họ không nhận được các lợi ích rõ ràng khi thực hiện các chương trình trước đó như chương trình 327 hoặc chương trình 661; thay vào đó, họ muốn được giao đất rừng. Đối với nông dân người Kinh, họ muốn được giao đất theo diện hộ gia đình để họ có thể trồng các loại cây trồng như: keo, cao su hoặc bạch đàn. Các cộng đồng dân tộc thiểu số quan tâm đến cả hai hình thức giao đất rừng cho hộ gia đình và cộng đồng và đồng thời không quan tâm đến các hợp đồng bảo vệ rừng.

4.3

Các loại lâm sản ngoài gỗ

Việc tiếp cận của người dân đối với rừng và tài nguyên rừng ví dụ như các loại lâm sản ngoài gỗ đã bị giảm dần theo thời gian. Mất đa dạng sinh học đã gây ra những tác dụng phụ đặc biệt tiêu cực ảnh hưởng đến các hộ gia đình dân tộc thiểu số nghèo, những người phụ thuộc nhiều hơn vào rừng để sinh sống qua ngày. Lâm sản ngoài gỗ là một nguồn dinh dưỡng cho các hộ gia đình dân tộc thiểu số, nhưng điều này ngày càng giảm dần cùng với quá trình suy thoái rừng. Mất đa dạng sinh học gần các thôn bản càng trở nên trầm trọng hơn bởi tác động của các LTQD đang hoạt động tại địa bàn một số khu vực mà nhóm tư vấn đã đến thăm như Hưng Trạch, Xuân Trạch và Trường Sơn. Nói chung, ở Việt Nam, việc duy trì các loài lâm sản ngoài gỗ như một phần của chiến lược quản lý rừng trong nhiều trường hợp đã bị bỏ quên bất kể nó có tầm quan trọng như thế nào đối với sinh kế của địa phương. Lâm sản ngoài gỗ dường như có tầm quan trọng khác nhau dưới hình thức một nguồn thu nhập đối với các hộ đồng bào người Kinh và người dân tộc thiểu số. Tại các thôn bản nơi nhóm tư vấn đến thăm, mây và lá nón (dùng để làm nón) là những nguồn thu nhập bổ sung quan trọng cho cả hai nhóm người Kinh và dân tộc thiểu số, trong khi măng và mật ong rừng, hoa phong lan dại, động vật hoang dã và cỏ Đót (làm chổi Đót) chủ yếu được thu thập/đặt bẩy và bán bới các đồng bào dân tộc thiểu số. Hoa chuối rừng và thân cây chuối cũng được thu lượm để sử dụng trong các gia đình tại các bản người dân tộc. Tuy nhiên, tại xã Trường Sơn, người dân nói rằng trước kia họ từng bán với số lượng lớn cỏ Đót, nhưng giờ đây thương nhân không còn thu mua cỏ Đót nữa. Người dân bản Chân Troộng cũng cho biết thương nhân người Kinh đến để thu mua cây mây gần bản của họ. Tại xã Hóa Sơn, nhóm tư vấn đã đến thăm hai thôn bản dân tộc thiểu số nhưng cả hai bản đều cho biết không có thu nhập đáng kể từ lâm sản ngoài gỗ cũng

43 Theo lý thuyết, các hộ gia đình nghèo và đặc biệt là các hộ nghèo người dân tộc thiểu số được quyền vay các khoản vay lãi suất thấp hoặc lãi suất 0% từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, Ngân hàng này có thể không có đủ ngân quỹ để cho vay, do phải phụ thuộc vào các khoản ưu đãi của Chính quyền Trung ương.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

31

như ít khi thu lượm lâm sản ngoài gỗ để dùng trong gia đình (cả hai thôn bản đều có cả người Kinh và người dân tộc thiểu: thôn đầu tiên nhiều người Kinh hơn và bản thứ hai nhiều đồng bào dân tộc thiểu số hơn). Phụ nữ quan tâm nhiều hơn đến các loại lâm sản ngoài gỗ trong rừng. Có nhiều phụ nữ hơn đàn ông đi vào rừng để thu gom ví dụ như lá nón. Phụ nữ, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, dường như có nhiều kiến thức hơn đàn ông về các loại thực phẩm khác nhau trong rừng. Phụ nữ người Kinh thường chủ yếu thu thập các loại lâm sản ngoài gỗ có thể bán ra thị trường. Sự khác biệt về mức thu nhập giữa các thôn bản dường như không nhiều lắm do mức độ phụ thuộc vào lâm sản ngoài gỗ khá tương đồng liên quan đến khả năng bán các sản phẩm này ra thị trường.

Cây mây chờ bán cho thương nhân (Ảnh chụp tại xã Trường Sơn)

Tại hầu hết các thôn người Kinh, tất cả mọi người có sức khỏe đều đi tìm “lá nón”. Việc thu gom “lá nón” cung cấp một nguồn thu nhập tiền mặt bổ sung ổn định, đặc biệt quan trọng đối với những người phụ nữ phụ trách việc mua thực phẩm cho gia đình. Tuy nhiên, tại một số thôn người Kinh gần các LTQD, người dân nói với nhóm tư vấn rằng ngay cả lá nón cũng ngày càng trở nên khan hiếm và rằng họ có thể phải đi từ 10-15 và thậm chí lên đến 20 km bằng xe máy trước khi tiếp cận khu vực rừng nơi có thể tìm thấy lá nón.44 Người dân tại Thôn 3 xã Xuân Trạch nói với chúng tôi rằng giá lá nón đã tăng từ 80.000 đồng/1000 lá trong năm 2011 lên đến 100.000 đồng/1000 lá vào năm 2012. Họ nói rằng tối đa có thể thu hái được trong một ngày khoảng 2.000 lá, nhưng thường là 1.000 - 1.500 lá trong một ngày. Tuy nhiên, họ cũng cho biết chi phí xăng dầu cho cả đi và về hết khoảng khoảng 30.000 đồng. Khi chúng tôi hỏi người dân ở xã Xuân Trạch về việc họ lấy lá nón từ khu vực rừng của ai, họ không thể cho chúng tôi biết câu trả lời chính xác. Một số người nói khu vực đó thuộc LTQD Bố Trạch, nhưng những người khác nói rằng rừng tốt như vậy không thể thuộc về các công ty lâm nghiệp. Người dân tin rằng khu vực đó là một khu vực rừng phòng hộ, song không phải một phần của VQG PNKB. Một vấn đề đã nảy sinh trong cuộc thảo luận này và trong các cuộc thảo luận khác với người dân các thôn bản đó là ranh giới giữa các khu vực không được đánh dấu rõ ràng, ví dụ như, nơi ranh giới của các LTQD bắt đầu và kết thúc hoặc nơi ranh giới đất rừng của bất cứ ai khác bắt đầu và kết thúc. Người dân hầu như luôn luôn nói rằng các dấu mốc thường là các dấu mốc tự nhiên như lòng sông lòng suối, đồi núi và các loại địa hình tương tự. Tại một bản của xã Trường Sơn, người ta nói việc dễ nhất đó là xác định các vùng đất của LTQD kề cận vì LTQD này đánh dấu khu vực thông qua việc khai thác trắng và sau đó trồng lại với cây Keo. 44 Trớ trêu thay, điều này cũng đồng nghĩa với việc ý kiến rằng “người nghèo” phải phụ thuộc vào các loại lâm sản ngoài gỗ đã không còn đúng với tình hình thực tế vì chỉ có các hộ gia đình có xe máy mới có thể tiếp cận được với các khu vực còn có các loại lâm sản ngoài gỗ!

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

32

Người dân Thôn 9, xã Xuân Trạch không cần các mốc chỉ báo cũng biết rằng khu vực đồi núi này sắp sửa được LTQD giao lại cho họ. Phụ nữ bày tỏ mối quan ngại của họ nhiều hơn nam giới về việc các loại lâm sản ngoài gỗ và củi đốt càng ngày càng khan hiếm trong khu vực họ sinh sống. Một số phụ nữ Kinh cho biết họ đã giảm (ví dụ: tại thôn 3, thôn 9 xã Xuân Trạch, và thôn Đông Giang xã Hưng Trạch) hoặc đã từ bỏ (thôn 6, xã Xuân Trạch) việc thu thập các lâm sản ngoài gỗ do số lượng các loại lâm sản ngoài gỗ quanh khu vực họ sinh sống đã giảm đáng kể. Trong khi việc thu thập lâm sản ngoài gỗ là một công việc khá mệt nhọc, song việc thu gom lâm sản ngoài gỗ và lao động làm thuê trong ngày vẫn là hai trong số ít những nguồn thu nhập ổn định hiện có, bởi ở đây người dân thường chỉ trồng trọt một vụ/năm, trong khi các vật nuôi nhỏ thường được nuôi không phục vụ mục đích tạo thu nhập. Trên thực tế, một ý kiến phản hồi chung từ người dân đó là thu nhập từ nông nghiệp quá thất thường và dễ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi thời tiết và giá cả bấp bênh.

5.

Người dân và các bên liên quan khác trong ngành lâm nghiệp của Quảng Bình

Khi nhìn vào lịch sử gần đây của công tác quản lý lâm nghiệp tại tỉnh Quảng Bình, chúng tôi thấy rằng các LTQD đã và đang đóng một vai trò rất quan trọng. Đến tại thời điểm gần đây nhất là vào năm 2002, các LTQD vẫn quản lý 45% tổng số đất rừng của tỉnh. Vào thời điểm đó, 298.696 ha đất rừng được quản lý bởi các LTQD tại Quảng Bình là một con số cao thứ tư trong điều kiện tuyệt đối so với các LTQD khác ở bất cứ nơi nào khác tại Việt Nam (chỉ xếp sau Đắk Lắk, Gia Lai và Kon Tum trước khi các địa phương này được chia tách). Trong năm 2002, để có con số so sánh, các hộ gia đình Quảng Bình chỉ nhận được 20.289 ha đất rừng.45 Trong khi những cải cách LTQD đã mang lại một số thay đổi lớn, và nhiều diện tích đất rừng hơn đã được giao cho các hộ gia đình (tổng cộng không rõ) và một số diện tích ít hơn giao cho cộng đồng (tổng cộng không rõ), các LTQD vẫn là các bên liên quan chủ chốt trong công tác quản lý rừng trên địa bàn tỉnh có ảnh hưởng đến các cộng đồng hiện sống trong vùng phụ cận với các LTQD. Mặc dù không có số liệu chính thức, song theo số liệu không chính thức mà nhóm tư vấn hiện có, thì hiện các LTQD đang quản lý khoảng trên 130.000 ha, trong khi các BQLRPH quản lý khoảng hơn 100.000 ha. Tương tự như vậy, VQG PNKB (quản lý khoảng 125.000 ha) cũng có một tác động lớn đến các cộng đồng đang sinh sống xung quanh nó. các nước láng giềng gần nhất. Cuối cùng, kể từ khi đổi mới nền kinh tế Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân và các đơn vị trung gian cũng đang đóng một vai trò quan trọng trong ngành lâm nghiệp, đặc biệt là liên quan đến

45 Bộ NN&PTNT, 2003. “Sổ tay ngành lâm nghiệp. Báo cáo: Phân loại sử dụng đất, lập kế hoạch và giao đất rừng.” Hà Nội. Bao cáo này đưa ra con số rằng tổng “đất rừng” các loại (kể cả đất trống) của Quảng Bình là 669.130 ha.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

33

các thị trường chợ đen gắn với ngành lâm nghiệp. Sự tương tác giữa các bên liên quan khác nhau có ảnh hưởng đến tỷ lệ suy thoái rừng ở Quảng Bình hôm nay.

5.1

Các mối quan hệ của người dân với các lâm trường quốc doanh

Mức độ suy thoái rừng và thay đổi cảnh quan ở Quảng Bình có quan hệ chặt chẽ với các vấn đề liên quan đến các công ty lâm nghiệp và các LTQD phụ thuộc trên địa bàn tỉnh. Tại Quảng Bình hiện có hai công ty lâm nghiệp lớn (đã được chuyển đổi thành các công ty trách nhiệm hữu hạn lâm công nghiệp (LCN) một thành viên) gồm: công ty LCN Long Đại và công ty LCN Bắc Quảng Bình, và dưới 2 công ty này là 09 LTQD phụ thuộc, trong đó có 05 LTQD đang hoạt động trong vùng đệm. Như Bảng 3 cho thấy, các LTQD hiện trực tiếp quản lý hơn một nửa diện tích đất rừng của các xã trong vùng đệm VQG PNKB (không bao gồm hai xã vùng lõi), và việc này đã diễn ra trong các khoảng thời gian khác nhau: Bố Trạch kể từ năm 1976, Trường Sơn từ năm 1982, Bồng Lai từ năm 1992, và Minh Hoá chỉ từ năm 1997.46 Mặc dù không có các dữ liệu đầy đủ (hay đúng hơn, các dữ liệu chồng chéo nhau phụ thuộc vào các nguồn cung cấp dữ liệu khác nhau), liên quan đến đất rừng và độ che phủ rừng ở Quảng Bình, không có nghi ngờ rằng các LTQD là các đơn vị đi đầu và chủ trì quá trình làm suy thoái tài nguyên rừng trên hơn hai thập kỷ qua. Như vậy, trong khi Quảng Bình vẫn có tỷ lệ che phủ rừng cao nhất trong tất cả các tỉnh thành của Việt Nam (khoảng 67%), trên thực tế, chất lượng của các khu rừng đã suy giảm rất nhiều về mật độ và về đa dạng sinh học. Hiện có nhiều hơn các khu vực lớn được phân loại là "rừng nghèo" so với trước đây. Ngoài ra, các LTQD cũng có một vai trò hàng đầu trong tỉnh khi nói đến việc trồng các loài cây công nghiệp như cây keo và bạch đàn. Thật không may, việc trồng độc canh các loài cây ngoại lai thường được thực hiện dựa trên việc hoàn toàn thay thế (khai thác trắng) các khu vực rừng tự nhiên bị suy thoái bằng các lâm phần trồng keo. Trái lại, các Lâm trường quốc doanh “mong muốn” rừng bị suy thoái nhờ đó họ có “cớ” để khai thác rừng hàng loạt để trồng các loài cây ngoại lại như cây keo. Thực trạng “hai bên cùng thua” đối với vấn đề độ che phủ rừng và đa dạng sinh học của VQG PNKB sẽ cần phải được theo dõi cẩn thận trong quá trình thực hiện REDD+!

Việc khai thác trắng lặp đi lặp lại tại vùng đệm - mất đa dạng sinh học là điều không thể tránh ...

46 Xem báo cáo của Bjoern Wode (2012) “Đánh giá thực trạng sử dụng và sở hữu đất lâm nghiệp của các Lâm trường quốc doành và các đối tượng sử dụng đất khác trong khu vực vùng đệm – Kết quả đầu vào cho Quy hoạch Phát triển Vùng đệm” để biết thêm chi tiết về các LTQD.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

34

....... và việc đốt cháy các khu vực khai thác trắng cũng không giúp được gì nhiều ...

Bảng 3: Đất rừng thuộc quản lý của xã, VQG PNKB, LTQD và BQLRPH (ha)

LTQD

BQLRPH

Huyện Xã

VQG PNKB

Tổng đất rừng

% diện tích đát rừng thuộc xã quản lý

Tổng diện tích tự nhiên

Hộ DTTS theo % tổng hộ gia đình

Huyện Minh Hóa

Dân Hóa

17,697

15,345

92.9

7,125

46.4

8,220

Trọng Hoa

18,789

17,625

95.3

7,001

39.7

10,624

Trung Hóa

9,454

7,093

1.6

7,093

100

Hóa Sơn

18,031

16,800

65.8

2,857

17

8,820

5,123

30

21,954

2,071

Thượng Hóa

34,634

34,383

25.2

10,358

Tổng 5 xã

98,605

91,246

--

34,434

37.7

30,774

7,194

18,844

Huyện Bố Trạch

Xuân Trạch

17,717

15,527

0

1,201

3,471

10,855

7.7

Sơn Trạch

10,139

7,376

1.1

1,179

4,276

1,922

16

Hưng Trạch

9,515

8,217

0

2,165

0

6,052

26.3

Phú ĐỊnh

15,360

13,982

0

1,674

132

12,176

12

Phúc Trạch

6,022

3,538

0

2,408

0

68

1,130

Tân Trạch

N.D

36,232

95.3

N.D

826

N.D

85,715

Thượng Trạch

N.D

70,224

94.5

N.D

0

N.D

Tổng 7 xã

155,096

--

8,627

17.7

94,724

31,831

Chưa đầy đủ

Quang Ninh District

4.5

Trường Sơn

77,428

73,987

58.5

3,303

0

39,635^ 31,049

21.7

Tỏng 11 xã VĐ

234,786 212,873

--

46,364

39,783

77,834

49,893

N.D

Tổng 2 xã vùng lõi

107,456

--

N.D.

85,715

826

0

Chưa đầy đủ

Ghi chú: Số liệu của 9 xã (trừ Phú Định và Phúc Trạch) được cấp bởi cán bộ dự án. Các xã vùng lõi hầu hết thuộc VQG PNKB; xã Tân Trạch được giao 826 hecta thuộc LTQD Bồng Lai. Số liệu của Phú Định và Phúc Trạch trích từ báo cáo nghiên cứu của FFI cho Dự án Khu vực PNKB được thực hiện tháng 10 năm 2008 - số liệu của họ dựa trên Quyết định số 857/QĐ-UBND tháng 04/2007 của UBND tỉnh Quảng Bình. * Số liệu này chỉ liên quan đến đất rừng, và chỉ bao gồm các diện tích được giao cho các hộ gia đình, và các số liệu này cũng chưa chính xác. N.D = Không có số liệu (No data). ^ Khu vực này bao gồm LTQD Trường Sơn và LTQD Khe Giữa; LTQD Khe Giữa tại khu vực vùng đệm có ít đất hơn so với LTQD Trường Sơn (khoảng 4.100 ha).

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

35

Một số các xã hiện quản lý rất ít đất rừng so với diện tích đất rừng do các LTQD và các BQLRPH đang quản lý.47 Tại các khu vực mà nhóm đến phỏng vấn trong năm 2011 và 2012 nơi các LTQD vẫn có sự hiện diện đáng kể (Hưng Trạch, Xuân Trạch, Trường Sơn), cả người dân và các cán bộ xã đều đưa ra các phát biểu có thể nói là nghiêm trọng về các LTQD đang quản lý diện tích rừng trên các địa bàn. (Xem Bản đồ tại Phụ lục 7). Với việc phần lớn diện tích đất rừng nơi người dân tộc thiểu số sống ở các xã vùng đệm (Trường Sơn, xã Dân Hòa, Hòa Sơn, Thượng Hòa, Tân Trạch, Thượng Trạch) đang được các LTQD, các BQLRPH hoặc Ban quản lý VQG PNKB quản lý, cơ hội để người dân được hưởng lợi từ REDD+ sẽ là tối thiểu, trừ khi việc cải cách các LTQD tiếp tục được chính quyền tỉnh thúc đẩy và các các phương thức đồng quản lý với VQG PNKB và các BQLRPH được áp dụng. Mặc dù sẽ rất khó khăn để xác định các thông tin chính xác ở giai đoạn này, song chắc chắn đã có sự chồng chéo giữa các vùng đất canh tác nương rẫy của bà con dân tộc thiểu số và các khu vực đã được UBND tỉnh giao cho các LTQD tính từ giữa những năm 1970. Điều đó đồng nghĩa với việc người dân địa phương hiện sử dụng đất rừng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách “bất hợp pháp” trong khi về bản chất khu vực đất đai đó có thể đã được tổ tiên họ sử dụng trong thời gian dài hoặc là các khu vực chung do cộng đồng quản lý, bao gồm các khu rừng thiêng. Khi nói đến các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+, câu hỏi mang tính lịch sử sẽ được đặt ra về việc làm thế nào áp dụng các biện pháp này. Nếu các đồng bào dân tộc thiểu số bị tách khỏi các vùng đất truyền thống của họ thông qua "quyền sở hữu chính thức" bởi vì các chính sách của Nhà nước đã và đang không thừa nhận các quyền sở hữu truyền thống của họ, thì liệu điều này có nghĩa là những người được thừa nhận chính thức - ví dụ như các LTQD - sẽ nhận được ưu đãi về chi trả so với các bên sở hữu truyền thống hay không? Suy thoái rừng gây ra bởi các LTQD cũng gây nên một "vòng luẩn quẩn" gắn với sự tham gia sâu hơn của người dân các thôn bản vào quá trình suy thoái rừng. Có nghĩa là, nếu các khu vực rừng gần một thôn bản nào đó bị suy thoái hoặc bị chặt phá bởi các LTQD, thì người dân thôn bản đó sẽ không còn có thể sử dụng những khu vực đó được nữa. Họ sẽ phải đi xa hơn để tiếp cận được với các nguồn tài nguyên rừng có cùng chất lượng và số lượng như trước kia họ đã có. Vì vậy, người dân khai thác nhiều diện tích rừng hơn để đảm bảo sinh kế của họ, vì các LTQD đã khiến cuộc sống của họ trở nên không an toàn thông qua việc làm giảm diện tích rừng trong khu vực lân cận nơi người dân sinh sống. Vòng tròn luẩn quẩn như vậy có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu bằng việc giảm diện tích do các LTQD quản lý hoặc áp dụng các nguyên tắc đồng quản lý, trong đó nhu cầu sinh kế cộng đồng địa phương được tôn trọng. Có những phản ứng mạnh mẽ từ phía đồng bào người Kinh và người dân tộc thiểu số trong vùng chống lại các LTQD bởi vì họ xem các LTQD là một phần của nguyên nhân dẫn đến tình trạng "đất đai bị co rút, thu hẹp" xảy ra trong khu vực đó. Người dân cũng tức giận về việc các LTQD phá rừng tự nhiên để trồng rừng độc canh vì hai lý do: một là khu vực nơi người dân thu thập các loài lâm sản ngoài gỗ bị phá hủy và thứ hai là họ nhìn thấy đất rừng sản xuất là một trong những cơ hội duy nhất mà họ có được để có thể kiếm được thu nhập bổ sung, nếu họ có thể được giao nhiều đất rừng hơn. Một số xã hiện nay được coi là "điểm nóng" về mâu thuẫn giữa người dân địa phương và các LTQD. Tại các xã Xuân Trạch, Hưng Trạch và Trường Sơn, hiện đang có sự leo thang rõ ràng về mức độ các cuộc xung đột giữa các lâm trường và người dân địa phương được thể hiện qua sự giận dữ của người dân địa phương khi mô tả các hoạt động của các LTQD. Nhóm đã không thảo luận về các cuộc xung đột với các đại diện của các LTQD do một chuyên gia tư vấn khác (Wode, 2012) đã thực hiện một đợt nghiên cứu sâu hơn về các LTQD vào đầu năm nay (và tư vấn này sẽ trở lại Quảng Bình vào năm 2013 để tiến hành một đợt nghiên cứu khác có liên quan đến các LTQD).

47 Về mặt hành chính, các BQLRPH thuộc sự quản lý của huyện và của UBND tỉnh; phần lớn các BQLRPH được thành lập tách ra từ các LTQD theo Nghị định 200 về chuyển đổi các LTQD được ban hành tháng 12 năm 2004.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

36

Tại xã Xuân Trạch, một cuộc xung đột lớn đã xảy ra giữa người dân địa phương (người Kinh) và Lâm trường Bố Trạch. Tại xã này trong năm 2011,48 các quan chức địa phương cho biết LTQD Bố Trạch sẽ trồng (bất hợp pháp, họ nghĩ như vậy) các loài cao su và keo trên khu vực đất lâm nghiệp bảo vệ lưu vực sông quan trọng nhất của xã, và điều này có nghĩa là LTQD này sẽ khai thác trắng các diện tích rừng tự nhiên hiện có để làm được điều này. Tuy nhiên, đồng thời, xã đã trình lên các cấp cao hơn xin được giao lại đất rừng từ LTQD Bố Trạch cho người dân địa phương (đã trình từ 2008/2009, nhưng không có phản hồi từ UBND tỉnh - là người ra quyết định cuối cùng về những vấn đề như vậy). Khi chúng tôi trở lại xã Xuân Trạch trong tháng 11 năm 2012, câu chuyện này đã có những bước chuyển bất ngờ. Lâm trường rõ ràng đã đồng ý giao đất cho xã một cách rất đột ngột: khoảng 500 ha. Tuy nhiên, khu vực này không phải là khu vực mà xã yêu cầu giao lại cho người dân địa phương (bao gồm 500 ha đã được 18 hộ gia đình sử dụng trong quá khứ), mà là 500ha đất rừng năm trong khu vực rừng đầu nguồn. Trong khi đó là một việc tốt khi khu vực đầu nguồn có địa hình dốc không được chuyển đổi thành rừng trồng, song vấn đề đáng nói ở đây đó là LTQD chỉ bóc tách các khu vực đất mình sẽ không thể sử dụng được, và giữ lại những khu vực có chất lượng tốt có thể sử dụng được. Do vậy, các cán bộ xã Xuân Trạch nói với chúng tôi rằng họ sẽ kiểm tra khu vực đầu nguồn nói trên và nếu khu vực này không đáp ứng với yêu cầu của cộng đồng địa phương, họ sẽ không chấp nhận nó. Rõ ràng rằng, giải pháp thích hợp ở đây đó là LTQD nói trên bóc tách và giao lại cả khu vực rừng đầu nguồn và các khu vực đã được xã yêu cầu, vì khu vực rừng đầu nguồn sẽ mang lại những lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp cho ít nhất là 03 thôn. Trong mọi trường hợp, khi xem xét đến việc toàn bộ khu vực LTQD nói trên đang quản lý có diện tích khoảng 10.650 ha, thì sau khi bóc tách về cho địa phương số diện tích nói trên, lâm trường sẽ vẫn còn có một khu vực rộng lớn để quản lý!49 Cho đến nay, như đã đề cập, LTQD này đã bàn giao 195 ha đất rừng cho xã. Diện tích 195 ha rừng này cũng chính là nguyên nhân dẫn tới một vấn đề xung đột khác giữa LTQD - người dân bắt nguồn từ các hợp đồng bảo vệ rừng theo Chương trình 327 trước đây. Có 06 hộ gia đình đã chuyển nhà của họ đến khu vực này vào giữa những năm 1990 để trồng rừng (và có lẽ một số loại cây trồng khác). Họ tuyên bố khu vực đất đai này là của họ và muốn được cấp Sổ Đỏ cho diện tích khoảng 180 ha. Tuy nhiên, LTQD nói trên cho biết họ chưa bao giờ đồng ý bất cứ điều gì ngoài các hợp đồng bảo vệ rừng với những người này, có nghĩa là những người này không có bất kỳ quyền gì đối với diện tích đất lâm nghiệp nói trên. Với sự can thiệp của UBND huyện, vụ việc này cuối cùng đã được quyết định rằng sáu hộ gia đình sẽ nhận được mỗi hộ 05 ha (chứ không phải là 30 ha như họ đã tuyên bố), phần còn lại được giao lại cho 03 thông. Diện tích đất này hiện đang được UBND xã chuẩn bị giao cho 03 thôn. Những xung đột và những điều không chắc chắn như vậy về quyền sử dụng đất rừng rõ ràng sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện đầy đủ các biện pháp đảm bảo an toàn trong thực thi REDD+. Xã Trường Sơn cũng đã trở thành một điểm nóng xung đột giữa người dân và Lâm trường Trường Sơn. Trong khi có những oán giận đang sôi sục ở các cấp độ khác nhau, hiện có vấn đề xung đột nghiêm trọng xảy ra tại bản người Vân Kiều, bản Khe Cát. Câu chuyện có phần dài và phức tạp, nhưng tựu trung liên quan tới 17 hộ gia đình đã tham gia trồng khoảng hai ha cây keo thông qua thoả thuận với LTQD Trường Sơn trong khoảng năm 2002. Quá trình hợp tác này được thực hiện dưới sự bảo trợ của Chương trình 661, và dân làng nhớ lại rõ ràng, dù rằng không có hợp đồng bằng văn bản với LTQD Trường Sơn, khi đến thời gian thu hoạch keo, lợi ích liên quan sẽ thuộc về họ. Họ thậm chí nhớ lại rằng cán bộ LTQD Trường Sơn nói với họ rằng họ nên bán gỗ cho LTQD này (trong thực tế, cây keo trồng ở đây là để lấy gỗ, chứ không phải lấy dăm gỗ). Trong năm 2010, một thương nhân đến bản thu mua keo với giá 33 triệu đồng, dù rằng trên thực tế đây là một mức giá thấp nếu xét đến giá trị gỗ keo trên thị trường mở. Khi các cán bộ Lâm trường biết được tin này, việc mua bán keo bị chặn lại ngay lập tức. Tuy nhiên, vài

48 Câu chuyện này được khẳng định trong báo cáo của Bjoern Wode (2012) về các LTQD sau chuyến công tác tại Xuân Trạch vào tháng 03 năm 2012. 49 Các cán bộ xã Xuân Trạch rất giận dữ với LTQD này và nói rằng họ thậm chí không muốn chấp các hợp đồng bảo vệ rừng từ LTQD này đối với các khu vực rừng trên địa bàn xã.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

37

- Giảm số lượng các loài cây gỗ, đặc biệt là các loài gỗ có giá trị như gỗ lim; - Giảm sự sẵn có của các loài cây gỗ lớn; - Giảm các loại lâm sản ngoài gỗ; - Giảm các loài động vật, đặc biệt là các loài động vật lớn; - Tăng tình trạng lũ lụt, xói mòn do mất rừng (dặc biệt là do khai thác trắng rừng tự nhiên,

- Tăng tinhftrangj bồi lắng tại các khu vực hạ nguồn (được quan sát tại 02 thôn người

- Không được chăn thả gia súc trong các khu vực rừng trồng của các LTQD.

tháng sau đó, bản thân các cán bộ của lâm trường lại tiến hành khai thác keo tại khu vực này, song người dân phát hiện ra và ngăn không cho các cán bộ Lâm trường khai thác keo. Lâm trường giờ tuyên bố rằng người dân chỉ được hưởng công lao động của họ (đã thanh toán hay chưa, không rõ ràng) nhưng toàn bộ lợi ích từ việc bán gỗ thuộc về lâm trường vì họ là chủ rừng. Tất nhiên, người dân không chấp nhận tuyên bố một chiều này từ phía lâm trường và đã khiếu nại chính thức lên UBND xã. UBND xã đang cố gắng tìm một phương án thỏa hiệp nhưng cho đến nay chưa có kết quả. UBND xã thông cảm với những người dân Vân Kiều, vì nhận ra rằng đời sống của họ không được đảm bảo, quá ít đất nông nghiệp để tồn tại, và rằng người dân cần phải có quyền lợi lớn hơn đối với diện tích trồng keo so với những gì lâm trường cho phép họ hưởng lợi. Dân bản vô cùng tức giận về lâm trường và đã đuổi một cán bộ lâm trường ra khỏi bản. Từ đó đến nay, không có sự thỏa hiệp giữa hai bên và, trong khi đó, người dân khai thác gỗ trái phép trên lâm phần của lâm trường và bán cho một thương nhân thường xuyên đến thu mua tại bảnTất nhiên, sự tham lam của các nhân viên lâm trường quá rõ ràng trong câu chuyện "chàng David và người khổng lồ Goliath" này: một lâm trường kiểm soát trên tổng số hơn 35.000 ha đất lâm nghiệp, trong đó có hơn 9.000 ha rừng giàu và trung bình, lại chăm chăm muốn đảm bảo phải có được tất cả những lợi ích từ một khu vực rừng chỉ có hai ha. Với một thái độ như vậy đối với người dân, thật ngạc nhiên là công ty này lại là một trong những đơn vị đầu tiên xin áp dụng Chứng chỉ quản lý rừng (chứng chỉ FSC). Điều này trái ngược với các biện pháp đảm bảo an toàn của chứng chỉ FSC liên quan đến sự tham gia, tính minh bạch và sự hỗ trợ/sự tôn trọng đối với sinh kế của người dân bản địa.50 Theo người dân, lâm trường chặt rừng tự nhiên và trồng trên các khu vực này các loài cây thương mại. Báo cáo nghiên cứu của Wode (2012) cũng báo cáo rằng các lâm trường có thiên hướng trồng độc canh các loài cây ngoại lai, LTQD Bố Trạch nói trên quản lý hơn 10.650 ha, nhưng hơn 5.000 ha là rừng "nghèo" với gần 1.200 ha đã được trồng cây keo. Cũng trong huyện Bố Trạch, LTQD Bồng Lai quản lý khoảng hơn 10.400 ha, trong đó 40% là rừng "nghèo", và khoảng 1.200 ha đã được cấp trên cho phép trồng rừng độc canh. Có lẽ một lý do đằng sau việc làm này đó là sẽ dễ dàng hơn nếu quản lý độc canh so với việc phải áp dụng các kỹ thuật lâm sinh thích hợp đối với rừng tự nhiên và phải khai thác gỗ chọn lọc dựa trên các kế hoạch khai thác cẩn thận và hạn ngạch nhất định hằng năm. Các LTQD chủ yếu chạy theo động cơ lợi nhuận khi tiến hành các hoạt động trên. Tuy nhiên, việc khai thác trắng rừng tự nhiên để trồng keo không chỉ là sản phẩm của việc quản lý rừng không phù hợp tại vùng đệm của VQG PNKB mà còn nhằm để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các đơn vị xuất khẩu dăm gỗ ven biển được khích lệ bởi các chính sách đầu tư kinh tế vĩ mô của Chính phủ để thúc đẩy tăng trưởng. Người dân các xã Hưng Trạch, Xuân Trạch và Trường Sơn và tại huyện Minh Hóa (xã Hóa Sơn) sống gần các LTQD nhất đã kết luận rằng các LTQD phải chịu trách nhiệm về một lạt các tác động tiêu cực về mặt môi trường, đặc biệt là liên quan đến tình trạng suy thoái rừng. Các tác động tiêu cực về kinh tế và môi trường bao gồm: kể cả tại các khu vực rừng đầu nguồn của các thôn bản) Kinh của xã Hưng Trạch); Người dân, đặc biệt là tại xã Trường Sơn, cho biết họ cảm thấy các ranh giới giữa đất đai của họ và của các LTQD là không rõ ràng.51 Tại một số xã, người dân cũng bày tỏ ý kiến rằng họ bị mất các khu vực đất nông nghiệp tiềm năng do LTQD trên địa bàn được giao các khu vực đất rừng mà người dân có thể sử dụng để tiến hành canh tác nông nghiệp hoặc nông-lâm nghiệp, từ

50 Các quy định của chứng chỉ FSC không khác nhiều so với các yếu tố đảm bảo an toàn của REDD+. 51 Xem báo cáo nghiên cứu khả thi do KfW thực hiện năm 2006 về các quan sát tương tự.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

38

đó người dân có thể sản xuất có hiệu quả những khu vực này. Tại bản Chân Troộng, người dân cho biết có xung đột với LTQD về diện tích canh tác nương rẫy của họ, nhưng trong trường hợp này họ không bị buộc phải rời khỏi khu vực đó. Sự oán giận của người dân được đẩy lên cao tại xã Xuân Trạch khi người dân tin rằng các công nhân của LTQD nơi đây đang được giao làm chủ sở hữu trên thực tế của các diện tích đất rừng lớn. Người dân tại thôn 9 tỏ ra rất giận dữ khi nhớ lại rằng khi họ được thuê làm việc hằng ngày cho LTQD nói trên, hóa ra người chủ thực tế của các khu vực này lại chính là các cán bộ của LTQD.52 Mặc dù vẫn có nhiều điều chưa hài lòng, song đàn ông và phụ nữ vẫn đi làm thuê cho các LTQD gần địa bàn mình. Họ có thể kiếm khoảng 120.000 đồng/ngày, nhưng họ nói công việc khá nặng nhọc (làm đất, đào hố, trồng và chăm sóc cây) và chỉ người khỏe mới có thể làm được. Những người dân được trả công lao động hằng ngày cảm thấy sẽ tốt hơn nhiều nếu họ được giao đất rừng thay vì đi làm thuê cho các LTQD, và do đó họ sẽ được hưởng lợi đầy đủ từ công việc của mình. Tại một số nơi (Trường Sơn và Xuân Trạch), người dân khẳng định rằng họ sẽ không làm thuê cho LTQD dù họ có cần tiền nhiều như thế nào đi chăng nữa. Hợp đồng bảo vệ giữa lâm trường và người dân địa phương dường như đã trở thành quá khứ. Một số người dân cho biết, các LTQD chỉ "hợp đồng" với nhân viên của LTQD, mà không hợp đồng với người dân địa phương (một nguyên nhân khác dẫn tới sự oán giận). Chúng tôi đến thăm Thôn 3 xã Xuân Trạch, tại đây một người phụ nữ nói rằng cô và gia đình cô nhận được hợp đồng bảo vệ với LTQD Bố Trạch bảo vệ 27 ha rừng trong thời gian tám tháng, với mức thanh toán 05 triệu đồng mỗi tháng. Với số tiền này, cô và gia đình cô sống tại chỗ và thực hiện các nhiệm vụ khác nhau được LTQD Bố Trạch yêu cầu. Người dân khác nghĩ rằng việc này giống như "trúng số", và cảm thấy hộ gia đình này rất may mắn có được một hợp đồng như vậy. Người dân nơi đây cũng nghĩ rằng hợp đồng này là một ngoại lệ so với các cách hành xử khác mà LTQD này thường áp dụng với người dân địa phương.

5.2

Vườn quốc gia Phong Nha -Kẻ Bàng và cộng đồng địa phương

Điều khoản tham chiếu có hai vấn đề liên quan đến các cộng đồng địa phương và VQG PNKB. Đầu tiên, nó đòi hỏi phần đánh giá sự phù hợp và việc sử dụng tiềm năng của nguyên tắc tham vấn cộng đồng FPIC về việc mở rộng VQG PNKB. Trong thực tế, VQG PNKB đã được mở rộng vào năm 2007, và nếu có các kế hoạch mở rộng khác thì bản thân tư vấn cũng không nắm được các bản kế hoạch này. Trong khi có thể tại thời điểm mở rộng VQG PNKB, một số quá trình tham vấn đã được thực hiện, tuy nhiên, các nguyên tắc tham vấn cộng đồng vẫn chưa được áp dụng phù hợp và tại các cộng đồng, người dân địa phương không có tiếng nói cuối cùng trong việc xác định ranh giới VQG PNKB gần với các thôn bản của họ.53 Tuy nhiên, hiện nay có các cơ hội chắc chắn về các hoạt động tham vấn có sự tham gia nhiều hơn giữa VQG PNKB và các cộng đồng địa phương khi Quyết định số 07/2012/TTg của Thủ tướng Chính phủ được ban hành đề cập cụ thể đến các phương thức đồng quản lý giữa các cộng đồng và các ban quản lý rừng đặc dụng.54 Vấn đề thứ hai đòi hỏi phải so sánh các nguồn thu nhập hộ gia đình trước và sau khi thành lập VQG PNKB. Đây là câu hỏi không thể được trả lời một cách chắc chắn, bởi vì những phản hồi của người dân về những thứ họ có thể "kiếm được" từ khu vực VQG PNKB hơn 11 năm trước khá mơ hồ. Trong thực tế, khu vực ban đầu "Phong Nha" được thành lập như một khu bảo tồn thiên nhiên với diện tích khoảng 41.000 ha vào năm 1992, trong khi VQG PNKB với diện tích lớn hơn nhiều là 85.000 ha được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong năm 2001. Hơn nữa, các nguồn lực mà người dân đã khai thác trong quá khứ có thể cũng bao gồm các sản phẩm từ rừng để sử dụng trong gia đình: gỗ làm nhà ở và sử dụng cho các mục đích khác, săn bắn, đặt bẫy và đánh bắt cá để tự tiêu thụ, và thậm chí là sử dụng đất để chăn thả gia

52 Đây là quan sát của người dân, nhóm không kiểm tra chéo thông tin với UBND Bố Trạch. 53 Như đã ghi nhận ở trên, Nghị định về dân chủ cơ sở không cho các cộng đồng thôn bản quyền ra quyết định cuối cùng đối với nhiều vấn đề có liên quan. 54 Các vườn quốc gia, giống như VQG PNKB, được liệt vào phân loại “rừng đặc dụng” tại Việt Nam.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

39

súc và trồng trọt. Một số người dân cũng đã thu gom các loại lâm sản ngoài gỗ từ khu vực VQG PNKB để bán: phong lan rừng, mật ong và các loại tương tự. Tuy nhiên, theo kết quả của đợt nghiên cứu khả thi ban đầu (năm 2006) cho dự án khu vực PNKB, khai thác gỗ bất hợp pháp của cộng đồng địa phương (được tổ chức bởi các mạng lưới kinh doanh trái phép có tổ chức) đã được tiến hành trong một thời gian dài trong khu vực. Như vậy, khu vực PNKB trong quá khứ chắc hẳn đã là một nguồn thu nhập ổn định, nếu chưa nói là một nguồn thu nhập chính, đối với những người dân sống gần đó (chẳng hạn như các thôn bản của các xã Xuân Trạch, Sơn Trạch, Hưng Trạch và hai xã vùng lõi Tân Trạch, Thượng Trạch). Ngày nay, VQG PNKB hiện vẫn là nơi các hoạt động săn bắt động vật hoang dã và khai thác gỗ trái phép vẫn thường xuyên sảy ra. Chắc chắn, các nhà hàng buôn bán động vật hoang dã hiện vẫn đang hoạt động tự do ở Quảng Bình. Hoạt động khai thác gỗ bất hợp pháp một lần nữa lại xuất hiện trên báo chí vào tháng 5 năm 2012 với trường hợp liên quan đến việc chặt hạ ba cây gỗ Huê đặc biệt có giá trị (còn gọi là Sưa Bắc Bộ - Dalbergia tonkinensis) phục vụ cho thị trường béo bở của Trung Quốc. Báo cáo của các phương tiện truyền thông cho hay 12 người đàn ông từ các xã Xuân Trạch và Phúc Trạch đã bị bắt giữ liên quan đến vụ chặt hạ bất hợp pháp này. Mặc dù các hoạt động săn trộm vẫn đang diễn ra, tuy nhiên, người dân địa phương nói rằng chi phí cơ hội cho việc săn trộm tại VQG PNKB hiện cao hơn so với trong quá khứ, đó là, số lần họ bị bắt, hoặc phải chạy trốn nhân viên bảo vệ quá nhiều không đáng giá để họ phải bỏ ra những nỗ lực cần thiết để cố gắng tìm cây gỗ có giá trị hoặc các lâm sản ngoài gỗ. Nếu những gì người dân địa phương báo cáo là đúng, các hoạt động khai thác gỗ và săn bắt động vật hoang dã trái phép đang diễn ra trong khu vực VQG PNKB hiện đang được tổ chức bởi người bên ngoài khu vực dù rằng trong nhiều trường hợp người dân địa phương chính là người thực hiện trực tiếp. Nếu trường hợp này đúng với những gì xảy ra trong thực tế, vậy cần phải thực hiện các nỗ lực thực thi pháp luật nghiêm túc hơn nhiều và trên diện rộng hơn, bao gồm cả việc điều tra hiệu quả, tại khu vực này (có nghĩa là, từ Quảng Bình đến biên giới Trung Quốc). Rõ ràng, nếu người dân địa phương được tham gia vào công tác bảo tồn rừng và đa dạng sinh học của VQG PNKB, như vậy, sẽ cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa - và phải chuẩn bị sẵn sáng ngân sách thực hiện - nhằm đảm bảo rằng các cộng đồng địa phương thực sự tham gia vào các hoạt động đồng quản lý của VQG PNKB và được hưởng lợi từ khu vực này (không chỉ dưới hình thức các hợp đồng giao khoán như của chương trình 661). Tất nhiên, một câu hỏi mở ở đây đó là liệu REDD+ sẽ có thể cung cấp các cơ chế để tạo ra các nguồn ngân sách thực hiện hay không. Hiện tại, hầu hết người dân trước đây dễ dàng tiếp cận VQG PNKB và nguồn tài nguyên thiên nhiên của Vườn thì nay đều nhìn nhận việc này một cách trung lập. Many feel that it is one of the reasons for their more precarious livelihoods and at worst, as an area whose resources are still for the taking. Nhiều người cảm thấy việc khó tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên của VQG PNKB là một trong những lý do khiến cho đời sống của họ trở nên bấp bênh hơn và tồi tệ hơn, dù rằng khu vực này vẫn còn có tài nguyên để khai thác. Dĩ nhiên, VQG PNKB có thuê lao động tại địa phương. Theo Ban quản lý VQG PNKB, hiện có khoảng 2.600 người lao động được tuyển dụng, dù rằng không phải tất cả trong số đó đều là từ các xã vùng đệm. Người dân địa phương có thuyền chở khách du lịch có thể kiếm được nhiều tiền hơn nhờ vào sự nổi tiếng của VQG PNKB, song bởi vì số lượng thuyền trong khu vực quá nhiên nên người dân cũng khó có thể kiếm sống từ nghề này (đây là một ví dụ khác về thu nhập bổ sung). Hợp phần GIZ gần đây đã xây dựng tài liệu tóm tắt chính sách/tài liệu thảo luận về chi trả DVMTR liên quan đến du lịch trong khu vực hai khu bảo tồn, bao gồm cả VQG PNKB, trong đó đồng thời chỉ ra các tiềm năng và những khó khăn liên quan đến việc thực hiện cơ chế chi trả DVMTR đối với ngành du lịch.

5.3

Thương nhân và các đối tượng trung gian

Thương nhân người Kinh từ các vùng hạ du đóng một vai trò quan trọng trong quá trình suy thoái rừng và mất đa dạng sinh học ở Quảng Bình. Quá trình đổi mới trong năm 1986 và những năm sau đó tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã biến rừng, đất rừng và các sản phẩm liên quan đến rừng thành các món hàng hóa có thể trao đổi buôn bán trên thị trường. Việc thương mại hóa

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

40

rừng đã được thúc đẩy một phần bởi nhu cầu ngày càng cao, ví dụ, về gỗ để làm nhà và đồ nội thất. Các thương nhân vùng đồng bằng thâm nhập sâu vào các vùng sâu, vùng xa nhất của tỉnh để tìm gỗ. Theo thông tin tại xã Trường Sơn, ví dụ, thương nhân người Kinh bắt đầu tìm kiếm gỗ trong khu vực của họ từ khoảng mười năm trước đây. Vì vậy, trong khi một số người dân trước kia kiếm được thu nhập bằng tiền mặt từ các loại lâm sản ngoài gỗ, thì loại lâm sản chính hiện nay đang có nhu cầu cao từ thị trường chính là gỗ. Mặc dù người dân tộc thiểu số luôn luôn có xu hướng sống với rừng dựa trên khái niệm rằng nếu họ hỗ trợ rừng, rừng sẽ hỗ trợ họ, song người dân hiện nay cũng đã học được cách "thương mại hóa" rừng. Sự kết hợp giữa vấn đề sinh kế dễ bị tổn thương cộng với các kiến thức địa phương của người dân địa phương về nơi để tìm gỗ và lâm sản ngoài gỗ hiện đang được khai thác bởi các thương nhân người Kinh. Việc buôn bán gỗ bất hợp pháp phát triển mạnh vì các mạng lưới kinh doanh được thiết lập khá hoàn chỉnh có sự tham gia của người dân địa phương song họ hiếm khi đóng vai trò chính. Điều này đặc biệt đúng với người dân tộc thiểu số với vai trò là người khuân vác gỗ. Người dân mà chúng tôi đã nói chuyện với không thể, hoặc không muốn, xác định chính xác việc thương nhân đến từ đâu. Đặc biệt, người dân tộc thiểu số rất nhanh chóng chỉ ra rằng thương nhân vùng hạ du đều có liên quan đến các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp của họ trong khu vực này. Riêng tại xã Trường Sơn, vấn đề này đã được đề cập đến tại một số thôn bản. Họ nói với chúng tôi rằng lý do họ nhận được một mức giá thấp đối với số gỗ họ tìm thấy và khai thác trong rừng đó là vì các thương nhân phải trả phí cho tất cả các cán bộ bảo vệ rừng tại tất cả các trạm bảo vệ rừng dọc theo con đường chính. Xem xét đến tình hình suy thoái rừng đang diễn ra trên địa bàn tỉnh, báo cáo của dân làng là chắc chắn đúng. Các mối quan hệ kinh tế mà cộng đồng địa phương có được đối với rừng chắc chắn được định hướng bởi nhu cầu thị trường, và nhu cầu thị trường lại được điều khiển bởi thương nhân. Họ đến hoặc không đến các khu vực địa phương. Họ muốn hoặc không muốn có một sản phẩm nhất định nào đó với một số lượng nhất định. Vì vậy, phụ nữ người Kinh tại huyện Bố Trạch nói với chúng tôi trong lần khảo sát năm ngoái rằng trước đây họ đã được đào tạo để làm nón lá và đan lát mây tre nhưng cũng cho biết rằng họ đã từ bỏ các hoạt động này. Lý do thứ nhất họ đề cập là giá trị tăng thêm từ các hoạt động này không đáng để họ bỏ thời gian để làm và còn gây rắc rối cho họ; lý do thứ hai là các thương nhân kinh doanh mây quan tâm đến việc mua các sản phẩm dệt của họ đã không còn đến khu vực này để thu mua sản phẩm nữa. Như đã đề cập ở trên, tại hai bản dân tộc thiểu số của xã Trường Sơn, người dân ngừng thu thập mây bởi vì các thương nhân trước đây quan tâm đến mây nay không còn đến thu mua mây nữa. Một câu chuyện tương tự đã được phản ánh ở xã Hưng Trạch. Tuy nhiên, đối với gỗ, đó là một câu chuyện hoàn toàn khác trong đó nhu cầu về gỗ rõ ràng là không thay đổi hoặc thậm chí là tăng lên trong những năm qua. Tất nhiên, một trong những lý do cho sự gia tăng đó là các dự án cơ sở hạ tầng khác nhau đã cải thiện đáng kể các mạng lưới đường bộ cấp tỉnh, huyện và xã. Thương nhân có thể dễ dàng tiếp cận với các khu vực mà chỉ cách một vài năm trước đây họ không thể tiếp cận được. Việc mở tuyến đường Hồ Chí Minh từ đầu những năm 2000, trong khi nói một cách chắc chắn chính là một lợi ích cho việc phát triển du lịch ở VQG PNKB, song cũng đem lại những lợi ích nhất định cho việc khai thác gỗ và buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp. Các thương nhân đến để tìm gỗ ở Quảng Bình là những đối tượng trung gian, họ cũng đang bán gỗ cho những người mua ở xa.55 Điều này có nghĩa rằng do người dân phải chịu thiệt trong việc làm giá, thậm chí là chịu nợ với các thương nhân, thương nhân có thể hạ giá thành xuống khá thấp, trong khi họ có rất nhiều lợi nhuận để chi trả cho tất cả các quan chức tham nhũng và tạo ra lợi nhuận tốt bản thân.56 Người dân cũng được thương nhân thuê tham gia vào các băng nhóm hoạt động trong rừng để đi xa hơn tìm kiếm gỗ, không chỉ tại các khu vực các LTQD đã gây suy thoái hoặc phá hủy rừng

bán gỗ trái phép của Trung Quốc.

56 Người dân biết rằng giá bán họ có được từ các loài cây gỗ khác nhau thấp hơn so với giá thị trường, song họ cảm thấy họ không có sự lựa chọn nào khác. Họ nói: “Nếu chúng tôi không chấp nhận giá bán do thương nhân đưa ra, họ sẽ không mua của chúng tôi.”

55 Xem báo cáo gần đây nhất về Cơ quan Điều tra môi trường (2012) Nguồn gốc sự phá hủy: Việc buôn

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

41

tự nhiên, hoặc tại VQG PNKB, hoặc như đã đề cập ở trên, tại các nước láng giềng. Do đó, các thương nhân và những người mà họ bán gỗ phải chịu trách nhiệm về cái gọi là rò rỉ carbon từ Việt Nam sang Lào và xa hơn nữa. Kiều khai thác gỗ bất hợp pháp "miễn phí cho tất cả các bên" chỉ ra sự cần thiết phải nghiên cứu sâu rộng về quản trị rừng trong phạm vi Việt Nam và bên ngoài biên giới của nó.

6.

Tóm tắt các khoảng trống trong quá trình chuẩn bị sẵn sàng thực thi các yếu tố đảm bảo an toàn của REDD+

Các nguyên nhân chính đằng sau quá trình suy thoái rừng, bao gồm việc giảm đa dạng sinh học, tại Quảng Bình chính là các lợi ích thương mại liên quan đến việc phát triển trồng rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp và buôn lậu động vật hoang dã. Như được mô tả trong báo cáo này, các nguyên nhân nói trên phụ thuộc vào việc khai thác những người dân tộc thiểu số và những người không có nhiều các phương án sinh kế thay thế. Vì vậy, đời sống không được đảm bảo cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến suy thoái rừng. Bất kỳ chương trình nào có liên quan đến việc làm chậm lại hoặc đảo ngược xu hướng "khai thác trắng rừng" ở Quảng Bình 57 sẽ phải giải quyết các vấn đề sinh kế như là một phần của cách tiếp cận cảnh quan tổng hợp hơn liên quan đến biến đổi khí hậu và REDD+. Một trong những khoảng trống lớn đối với việc thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+ nằm ở các chính sách về quyền sử dụng rừng và đất đối với người dân bản địa/dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Hiện pháp luật chưa công nhận các hình thức sử dụng đất và rừng theo tập tục truyền thống. Hơn nữa, vẫn chưa có các chính sách công nhận riêng các nhu cầu của người dân tộc thiểu số đối với rừng, đất rừng và các lâm sản khác nhau (bao gồm cả lâm sản ngoài gỗ) để đảm bảo được cuộc sống. Nhiều năm tiến hành giao đất giao rừng và các chính sách về bảo vệ rừng đã làm giảm vai trò làm chủ của các đồng bào dân tộc thiểu số đối với đất đai và đất lâm nghiệp, có nghĩa là ngay cả khi các nguyên tắc tham vấn cộng đồng FPIC được giới thiệu, cơ hội để người dân được hưởng lợi từ REDD+ chưa chắc đã được đảm bảo hoặc nâng cao. Một trong những hướng giải quyết mở nhằm đảm bảo rằng người dân tộc thiểu số có thể hưởng lợi từ REDD+ sẽ là hướng tiếp cận quản lý rừng cộng đồng. Như mô tả ở trên, một khoảng trống lớn hiện đang tồn tại tại Quảng Bình đó là việc các LTQD được giao các khu vực đất rừng trước kia có thể là các khu vực canh tác truyền thống của các nhóm người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh và được quản lý theo các tập tục của họ. Việc lấp khoảng trống sẽ đòi hỏi phải giao lại nhiều đất rừng hơn từ các khu vực hiện đang được các LTQD quản lý cho các cộng đồng địa phương. Nói chung, QLRCĐ vẫn được coi là một "hoạt động thí điểm" ở Việt Nam và chưa có văn bản pháp luật dứt khoát công nhận hình thức quản lý này ở quốc gia. Tất nhiên, đây là khoảng trống lớn đối với việc thực thi các các biện pháp đảm bảo an toàn về REDD+ ở cấp địa phương. Vì những nỗ lực trước đó của Dự án SMNR-CV trên địa bàn tỉnh, tỉnh đã ban hành hai quyết định cấp tỉnh từ năm 2008 trong đó ít nhất đã phê chuẩn hai hướng dẫn sử dụng/sổ tay liên quan đến việc phân cấp quản lý rừng: quy hoạch sử dụng đất và giao đất giao rừng có sự tham gia và quản lý rừng cộng đồng (hai quyết định số 2311/QD-SNN và 1330/QD-SNN). Đây là hai quyết định có thể được sử dụng như điểm khởi đầu vững chắc cho các công việc tiếp theo, đặc biệt là về QLRCĐ trên địa bàn tỉnh, từ đó hỗ trợ Quảng Bình sẵn sàng thực hiện REDD+ trong thời gian sắp tới. Trong những năm gần đây, việc giao đất giao rừng diễn ra chậm ở Quảng Bình, và có một số xã như ở Minh Hóa nơi người dân không được cấp Sổ Đỏ. Tại các địa bàn khác nơi gần đây đã tiến hành một số hoạt động giao đất giao rừng, nhu cầu về đất lâm nghiệp và khối lượng đất rừng thực tế có sẵn để giao cho cấp thôn bản vẫn chưa cân xứng khiến đất đai vẫn được

57 Thuật ngữ “Hội chứng khai thác trắng rừng được sử dụng trong tài liệu R-PIN của VIệt Nam năm 2008: 4: Cho dù độ che phủ rừng của Việt Nam đã tăng lên trong những năm qua, song tình hình suy thoái rừng tự nhiên vẫn đang là một vấn đề rất đáng quan ngại. Việt Nam đang chịu hậu quả từ “hội chứng khai thác trắng rừng”.”

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

42

giao theo hình thức bốc thăm và điều này có thể mang lại những hậu quả tiêu cực đối với các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+. Quảng Bình là một trong số ít các tỉnh tại Việt Nam nơi các LTQD vẫn được giao quản lý một diện tích lớn đất rừng chất lượng tốt, ngay cả sau khi bắt đầu quá trình cải cách, chuyển đối LTQD. Quá trình giao lại đất rừng từ các LTQD cho các xã diễn ra chậm, thiếu một phương pháp tiếp cận có hệ thống để giao lại các khu vực đất rừng này, các khu vực đất rừng hiện có của các LTQD giao lại cho các địa phương có chất lượng kém, và sự tham gia chậm chạp của các cộng đồng địa phương trong quá trình giao đất giao rừng đều cho thấy các khoảng trống trong việc chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện REDD+ trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là liên quan đến các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội. Hơn nữa, quá trình chậm giao lại đất rừng kết hợp với tình trạng thiếu đất nông nghiệp tại các cộng đồng địa phương ở một số xã đã dẫn đến một số cuộc xung đột chưa được giải quyết giữa các lâm trường và người dân địa phương. Kết quả phân tích cuối cùng cho thấy các cộng đồng địa phương trên địa bản tỉnh Quảng Bình, cho dù là người Kinh hay dân tộc thiểu số, không được tiếp cận với rừng và không được giao các trách nhiệm quản lý rừng khi có sự hiện diện của các LTQD. Những khoảng trống như vậy có thể được lấp đầy trong một quá trình chuẩn bị sẵn sàng thực thi REDD+ với việc đẩy nhanh tốc độ giao đất giao rừng, với phương thức đồng quản lý được phát triển để áp dụng cho rừng đặc dụng và các loại rừng khác và phương thức quản lý rừng cộng đồng. Đồng thời, với việc có rất nhiều mâu thuẫn tại thời điểm hiện tại, một số công việc cơ bản sẽ cần phải được thực hiện để đảm bảo có hệ thống dữ liệu thống nhất cho tất cả các ngành, các cấp để làm càng rõ ràng càng tốt ai đã được giao đất rừng và được giao bao nhiêu và ở đâu. Có một số điểm tương đồng giữa các chương trình theo định hướng chi trả DVMTR và các chương trình theo REDD+. Do đó, ở Việt Nam, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (Quỹ BVPTR) đã được thành lập ở cấp quốc gia và cấp địa phương để chi trả cho các "dịch vụ môi trường" ở các cấp độ khác nhau. Thật không may, Quỹ BVPTR vẫn chưa được thành lập tại Quảng Bình, đồng nghĩa với việc tỉnh không có kinh nghiệm về quản lý quỹ này. Đây là một khoảng trồng nữa cần phải được cải thiện. Tuy nhiên, một điều có lẽ quan trọng hơn, bởi vì các hoạt động thí điểm QLRCĐ trước đó chưa đưa đến một sự kết thúc thành công ở Quảng Bình, nên tỉnh không có kinh nghiệm vững chắc về cơ chế chia sẻ lợi ích - cơ chế này thể hiển một cách rõ ràng cách các cộng đồng địa phương hoặc các nhóm hộ gia đình có thể nhận được các lợi ích từ việc tăng cường công tác quản lý rừng. Điều này có thể nhận được sự quan tâm nhiều hơn bởi Dự án khu vực PNKB do GIZ và KfW hỗ trợ, cũng như đối với việc chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+. Cuối cùng, bởi vì vấn đề sinh kế của cộng đồng địa phương thường không được đảm bảo, nên bất kỳ thiết kế nào của hệ thống phân chia lợi ích sẽ cần phải xem xét cả hai yếu tố "sự tham gia" và "quá trình thực hiện", chẳng hạn như chủ trương của Kế hoạch hành động thực hiện REDD cấp quốc gia của Việt Nam.

7.

Kết luận: Các hướng đi chuẩn bị sẵn sàng thực thi REDD+ tại Quảng Bình

Các khoảng trống và các thách thức đối với việc lập kế hoạch sẵn sàng thực hiện REDD+ như đã nêu ra trong nghiên cứu này là khá lớn đối với Quảng Bình, và sẽ cần phải được lấp đầy một cách có hệ thống. Việc lập kế hoạch sẵn sàng thực hiện REDD+ chắc chắn sẽ cần được hỗ trợ bởi các chương trình ODA dài hạn tập trung mạnh mẽ vào các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội và sự hỗ trợ về QLRCĐ tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, và coi đây là một phần nội dung quan trọng của hoạt động này. Phương pháp tiếp cận cảnh quan sẽ phải tích hợp cả lâm nghiệp và nông nghiệp để đảm bảo rằng sinh kế của người dân được đảm bảo, đủ để họ có thể nhận được các loại lợi ích khác nhau từ REDD+. Khi đến thời điểm hỗ trợ tái sinh rừng dài hạn thông qua hoạt động quản lý cộng đồng, cần phải có các nỗ lực nhằm đảm bảo rằng các lợi ích ngắn hạn, bao gồm cả lợi ích về đa dạng sinh học, được giữ ở mức cân bằng với các lợi ích lâu dài. Ví dụ, các phương pháp tiếp cận REDD+ ở Quảng Bình sẽ không hoàn thiện từ quan điểm đảm bảo an toàn xã hội nếu không giải quyết được các vấn đề về lâm sản ngoài gỗ.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

43

Rõ ràng, các chiến lược truyền thông là một phần quan trọng trong số các biện pháp có sự tham gia theo quy định của các biện pháp đảm bảo an toàn thực thi REDD+. Bản chất chỉ đạo thực hiện từ trên xuống của phần lớn các khuôn khổ pháp lý và chính sách ở Việt Nam khiến cho hiện tại không có nhiều khoảng trống để thực hiện các phương pháp tiếp cận có sự tham gia thực sự. Trong quá trình chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+, sẽ rất cần thiết phải cung cấp nhiều cơ hội hơn cho cộng đồng địa phương, bao gồm cả đồng bào dân tộc thiểu số, có tiếng nói lớn hơn về các quyết định có liên quan đến đất lâm nghiệp có ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của họ. Một cách để thực hiện điều này đó là thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự. Một khía cạnh quan trọng khác đó là tạo ra các chiến dịch thông tin về quyền lợi, về quyền và nghĩa vụ mà các cộng đồng địa phương có được đối với đất rừng. Các cán bộ chính quyền tất cả các cấp cũng cần được nâng cao năng lực một cách có hệ thống cho phép họ hiểu rõ và hỗ trợ quá trình chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ liên quan tới tất cả các biện pháp đảm bảo an toàn. Việc phát triển một hệ thống báo cáo minh bạch và đáng tin cậy về các biện pháp đảm bảo an toàn ở cấp địa phương cũng sẽ là ưu tiên hàng đầu trong việc chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+. Quá trình cải cách chuyển đổi LTQD diễn ra khá chậm tại Việt Nam, và gần như chắc chắn quá trình này cần được đẩy mạnh như là một phần của kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+. Việc giao tiếp các khu vực đất lâm nghiệp có chất lượng với số lượng xã và thôn có thể quản lý được sẽ phải được tăng tốc thực hiện. Hơn nữa, việc giao đất rừng với diện tích rộng hơn cho các cộng đồng sẽ phải thừa nhận một thực tế rằng mối quan hệ truyền thống với rừng giữa người Kinh và các dân tộc khác tại Quảng Bình là hoàn toàn khác nhau. Các nhóm dân tộc thiểu số khuynh hướng tự cung tự cấp theo cộng đồng và các phương thức quản lý tài nguyên của họ cần được tôn trọng và nâng cao. Một lần nữa, các chương trình QLRCĐ được thực hiện tốt sẽ phải trải qua một chặng đường dài để đạt được điều này, đặc biệt là khi các chương trình này có thể sẽ bao gồm các phương án về canh tác nương rẫy tại các khu vực rừng cộng đồng. Cuối cùng, là một phần không thể thiếu của quá trình cải cách, chuyển đổi LTQD đang được thực hiện tại thời điểm hiện tại, chất lượng của đất rừng được giao cho các cộng đồng sẽ phải nhận được sự quan tâm cao để cộng đồng sau khi nhận đất rừng có thể thực sự được hưởng lợi mà không cần các kiểu đầu tư dẫn đến việc trồng độc canh cây keo và những khu vực rừng tự nhiên trống trải sau khai thác trắng.

8.

Các tài liệu tham khảo

Clemant, Floriane and Jaime M. Amezagab (2008) “Trồng rừng và giao đất lâm nghiệp ở phía Bắc Việt Nam: Phân tích khoảng trống giữa các định hướng chính sách và các kết quả đạt được.” Chính sách sử dụng đất. Quyển 6, Số 3. Mạng lưới kiến thức về Khí hậu và Phát triển (CDKN) (2012) “Phân phối các lợi ích về REDD+: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam.” (Tài liệu chính sách) London. Ban điều tra môi trường (2012). Nguyên nhân hủy hoại: Quá trình buôn bán gỗ trái phép của Trung Quốc. London. Tổ chức Bảo tồn Động thực vật quốc tế (FFI - 2008) “Đánh giá sử dụng nguồn tài nguyên rừng và xác định đát lâm nghiệp phù hợp cho các cộng đồng tại vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.” Gebert, Rita và Trang Hiếu Tường (2011). “Nghiên cứu về Giới, Đói nghèo và Dân tộc thiểu số tại các xã vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình.” Dự án Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. GIZ (2012) “Chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với ngành du lịch Việt Nam”. Tóm tắt chính sách – Tài liệu thảo luận. Hợp phần GIZ - Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. IDLO và FAO (2011). Chuẩn bị về mặt pháp lý về thực hiện REDD+ tại Việt Nam: Trường hợp nghiên cứu cấp quốc gia. Rome.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

44

Larsen, Peter Bille (2008). “Kết nối sinh kế và bảo tồn các khu bảo tồn tại Việt Nam: Di sản Thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Tương lai nào cho người dân địa phương? Trong nghiên cứu của M. Galvin và T. Haller. Người dân, các khu bảo tồn và sự thay đổi toàn cầu: Bảo tồn có sự tham gia tại Châu Mỹ Latin, Châu Phi, Châu Á và Châu Âu:Các quan điểm Trung tâm quốc gia về năng lực nghiên cứu Bắc-Nam Thụy Sĩ. Đại học Bern, Quyển 3, trang 431 – 470. Luong, Thi Truong và Orlando M. Genotiva (2011). Công nhận quyền sử dụng đất theo tập tục của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam và Philippines. RECOFTC và Đại học Anglia (Tóm tắt chính sách). Bộ NN&PTNT (2011). Đề xuất chuẩn bị sẵn sàng (REDD+) thực hiện dự án FCPF. Hà Nội. Bộ NN&PTNT (2008). Tài liệu ý tưởng lập kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng thực hiện dự án FCPF. Hà Nội Bộ NN&PTNT (2006) Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam, 2006 – 2020. Hà Nội. Bộ NN&PTNT (ca. 2003) Sổ tay ngành lâm nghiệp. Báo cáo Phân loại sử dụng đất, lập kế hoạch và giao đất giao rừng. Hà Nội. Martin, Chris và Karen Runde (2011). Các rào cản về mặt thể chế dối với quản lý rừng cộng đồng: Trường hợp nghiên cứu của Việt Nam. Chuyên đề thạc sỹ tại Đại học Lund, Thụy Điển. Nguyễn và đồng sự (2010). “Đánh giá và kiểm tra việc áp dụng nguyên tắc tham vấn cộng đồng FPIC theo Chương trình UN-REDD tại tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam.” UN-REDD+, Hà Nội. Nguyen Quang Tan, Nguyen Van Chinh và Vu Thu Hanh (2008) Các quyền lợi về rừng theo pháp luật quy định và theo tập tục: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam. IUCN. Hà Nội. Nguyen Quang Tan và đồng sự (2008) Chuyển đổi quyền sử dụng rừng tại Việt Nam: Trường hợp nghiên cứu tại vùng cao nguyên phía Bắc và vùng Tây Nguyên. RECOFTC và các sáng kiến về quyền lợi và nguồn tài nguyên. Pham, Thu Thuy và đồng sự (2012). Bối cảnh REDD+ tại Việt Nam: Các nguyên nhân, Các tác nhân và Các tổ chức thể chế. Tài liệu 75. CIFOR. Bogor, Indonesia. Phelps, Jacob và đồng sự (2010) “Liệu REDD+ có đe dọa đến tái tập trung trong công tác quản trị rừng?” Diễn đàn chính sách trong Khoa học. Quyển 328, 16/04/2010. Phuc, Xuan To và đồng sự (2012) REDD+ tại Việt Nam: Lồng ghép các hướng tiếp cận cấp quốc gia và cấp địa phương. Forest Trends Association and Climate Focus. RECOFTC (2012) Tài liệu chính sách: Lộ trình điều chỉnh Lâm nghiệp cộng đồng đến năm 2020 – Châu Á. Bangkok. Schindele, W. (2006) “Đánh giá tiềm năng nguồn tài nguyên rừng và Kịch bản cung/cầu về gỗ tại các tỉnh thí điểm Đắk Lắk, Kon Tum, Ninh Thuận, Quảng Bình, và Yên Bái.“ Dự án Việt – Đức (GTZ) Xúc tiến sử dụng và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tiếp thị các lâm sản quan trọng”. Sikor, Thomas và Nguyen Quang Tan. (2011) Công nhận các quyền rừng tại Việt Nam: Giải quyết các vấn đề về quản lý rừng cộng đồng. RECOFTC và Đại học Đông Anglia. Hà Nội. Sikor, Thomas và Nguyen Quang Tan (2012). Các biện pháp đảm bảo an toàn REDD+ đối với Việt Nam: Các vấn đề chính và hướng đi tiếp theo. RECOFTC và Đại học Đông Anglia. (Tài liệu chính sách). Swan, Steve và đồng sự (2012). “Các biện pháp đảm bảo an toàn đan dạng sinh học trong REDD+: Các phương án dánh cho các hướng tiếp cận của các quốc gia đang phát triển.” BioREDD Brief No.2. Tháng 06. FCA – SNV.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

45

từ về tin ấn cận này. Tiếp khác thông

trường (các báo cáo về các trường): http://www.eia- tội ác môi

UN-REDD (2010). Thiết kế hệ thống phân phối lợi ích tuân theo REDD đối với Việt Nam. Vien, Tran Duc (ca. 2006). “Các chính sách quản lý đất rừng tại Việt Nam: Tổng quan.” Không có internet: phẩm http://www.cares.org.vn/webplus/Article/Forestland%20management%20policies%20in%20VietN am%20An%20Overview.pdf Vu Long và Vu Tan Phuong (2011). Báo cáo rà soát các chính sách lâm nghiệp tại Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu sinh thái rừng và môi trường. Giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng thông qua sử dụng đất thay thế tại các khu vực rừng nhiệt đới tại các vùng nhiệt đới (REDD-ALERT). Hà Nội. Vu Thu Hanh và đồng sự. (2007). Rà soát luật và chính sách liên quan đến việc chi trả các dịch vụ hệ sinh thái tại Việt Nam. IUCN. Hà Nội. Wheatley, Chris và Dai Peters (2008). Các loài keo tại Bắc Trung Bộ Việt Nam — Nghiên cứu văn phòng. ([Cây keo] Phần 3 Phân tích chuỗi giá trị và Nghiên cứu phát triển chương trình) SNV. Hà Nội. Wode, Björn (2012) “Đánh giá thực trạng sử dụng và sở hữu đất lâm nghiệp của các Lâm trường quốc doành và các đối tượng sử dụng đất khác trong khu vực vùng đệm – Kết quả đầu vào cho Quy hoạch Phát triển Vùng đệm.” Hợp phần GIZ, Dự án Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Wode, Björn và Bảo Huy (2009). “Nghiên cứu thực trạng lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam.” Ngân hàng Thế giới (2009). Phân tích xã hội của quốc gia: Dân tộc thiểu số và quá trình phát triển tại Việt Nam. Báo cáo tóm tắt. Khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Ban Phát triển bền vững. Ngân hàng Thế giới (2010). Nước CHXHCN Việt Nam: Thực thi pháp luật và quản trị rừng. Khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Ban Phát triển bền vững. Ziegler, Alan D và đồng sự (2010). “Công nhận các vai trò theo tập tục của nông nghiệp Thụy Điển trong vấn đề chuyển đổi cảnh quan Đông Nam Á.” Sinh vật học bảo tồn. Quyển 25, Số 4, 846–848. Selection of Useful Websites Accessed in November 2012: CIFOR (biến đổi khí hậu, REDD+, và các thông tin khác): http://www.cifor.org/online- library/browse.html ECOLEX: (Luật trên thế giới liên quan đến rừng và môi trường): www.ecolex.org Ban điều tra môi international.org/category/reports Trang quốc tế về khai thác gỗ trái phép: www.illegal-logging.info JICA – JOFCA: Bản đồ phân bố rừng của Việt Nam dựa trên ảnh viễn thám cho tất cả các khu vực, tỉnh thành từ 1990 đến 2010 (khoảng cách 05 năm) http://www.jpn-vn-redd.org/ RECOFTC (thông tin REDD+): www.recoftc.org/site/REDD-Net-Themes-and-Materials UNFCCC: http://unfccc.int/2860.php UNREDD: www.un-redd.org/ Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn Bộ tư pháp Việt Nam: http://moj.gov.vn/vbpq/en/Lists Chương trình và Văn phòng REDD Việt Nam: www.vietnam-redd.org/

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

46

Phụ lục 1: Các điều khoản tham chiếu nhiệm vụ

Các điều khoản tham chiếu nhiệm vụ Nghiên cứu cơ sở về các vấn đề xã hội - REDD+ tại tỉnh Quảng Bình (REDD+: Giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng)

Dự án:

Cố vấn trưởng: Khung thời gian đợt tư vấn: Địa điểm công tác:

Kết quả đầu ra:

Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Tiến sĩ Jens Kallabinski Từ 22/10 đến 10/12/2012 (bao gồm một đợt nghiên cứu thực địa tại Việt Nam), kéo dài 41 ngày Thành phố Đồng Hới, khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình và tại Hà Nội (và tại Berlin, Đức) Báo cáo tiếng Anh miêu tả và phân tích các điều kiện kinh tế- xã hội và các điều kiện khung pháp lý để thực hiện REDD+ tại Quảng Bình 05/12/2012

Thời hạn nộp báo cáo: I Bối cảnh Dự án Khu vực PNKB “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng” (Dự án khu vực PNKB) là một dự án phát triển Việt - Đức, được Chính phủ Việt Nam khởi xướng và cùng phối hợp thực hiện với Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển liên bang Đức (BMZ). Dự án được phối hợp thực hiện bởi hai tổ chức Phát triển Đức: Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và Ngân hàng KfW trên cơ sở phối hợp với UBND tỉnh Quảng Bình. Mục tiêu tổng quát của Dự án là đóng góp vào bảo tồn khu vực Bắc Trường Sơn, tính đa dạng sinh học và các dịch vụ sinh thái gắn liền với phát triển bền vững về kinh tế - xã hội. Mục tiêu cụ thể của Dự án là nâng cao công tác quản lý và bảo vệ Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng thông qua giảm áp lực lên VQG và cải thiện thu nhập hợp pháp của người dân địa phương sống trong vùng đệm VQG. Dự án khu vực PNKB được thiết kế trong thời gian 8 năm, bắt đầu từ tháng 10/2007 đến tháng 9/2015 (với 3 giai đoạn) đối với Hợp phần hỗ trợ kỹ thuật GIZ và từ tháng 8/2008 đến tháng 9/2016 đối với Hợp phần hợp tác tài chính (KfW). Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (VQG PNKB), nằm về phía Tây Bắc tỉnh Quảng Bình, với diện tích 85.754 ha được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới vào năm 2003 theo tiêu chí (viii) về các giá trị nổi bật về địa chất, địa mạo với hệ thống karst và hang động kỳ vĩ. Từ khi được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới, VQG PNKB càng ngày càng trở thành một điểm đến ưa thích của khách du lịch, thu hút hơn 300.000 lượt khách đến tham quan mỗi năm. VQG PNKB có vùng đệm bao quanh rộng khoảng 225.000 ha, bao gồm 13 xã phụ cận thuộc 03 huyện gồm Bố Trạch (các xã Thượng Trạch, Tân Trạch, Phú Định, Hưng Trạch, Sơn Trạch, Phúc Trạch và Xuân Trạch), Minh Hóa (các xã Thượng Hóa, Trung Hóa, Hóa Sơn, Dân Hóa và Trọng Hóa) và Quảng Ninh (xã Trường Sơn). Dân số vùng đệm khoảng 60.000 người và các hoạt động sinh kế chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Vườn quốc gia và chỉ có một bộ phận người dân địa phương tham gia và được hưởng lợi nhờ các hoạt động du lịch. Mặc dù VQG PNKB có tầm quan trọng rất lớn, song các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của VQG PNKB, đặc biệt là các giá trị về đa dạng sinh thái đang bị áp lực bởi nạn khai thác gỗ trái phép và săn bắt động vật hoang dã, cũng như việc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng đệm của người dân địa phương. Ngoài ra, phát triển du lịch cũng có một số tác động không mong muốn đối với các nguồn tài nguyen, giá trị di sản của VQG.. Chính vì thế, dự án Khu vực PNKB được thiết kế để hỗ trợ các hoạt động mang tính phức hợp hướng đến việc liên kết các mục tiêu bảo tồn thiên nhiên của vùng lõi và các nhu cầu phát triển của vùng đệm VQG, đặc biệt là của cộng đồng dân cư khu vực vùng đệm.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

47

Vào tháng 03 năm 2012, một đợt nghiên cứu về “Xây dựng danh mục các dự án – của Hợp tác Kỹ thuật Đức trong khuôn khổ các dự án về đa dạng sinh học các hệ sinh thái rừng, tiềm năng lồng ghép với nội dung biến đổi khí hậu” đã được tiến hành với tham gia của các chuyên gia: Christoph Feldkötter, Hans Helmrich, Isabel Renner và Ravindra Singh. Nhiệm vụ của đợt nghiên cứu là đánh giá các phương án lựa chọn về việc sắp xếp lại các dự án đa dạng sinh học tại Việt Nam đang được GIZ hỗ trợ (Dự án Bảo tồn Đa dạng sinh học các hệ sinh thái rừng và Dự án khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng). Ngoài các nhận định và khuyến nghị khác, Đoàn nghiên cứu đã nhận định và khuyến nghị một kế hoạch nghiên cứu khả thi đối với tiềm năng thực hiện các dự án về REDD+ “Giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng”. Trên cơ sở đó, đoàn khuyến nghị nên hỗ trợ tỉnh Quảng Bình xây dựng một dự án riêng về REDD+, với mã số dự án và nguồn ngân sách riêng, không nên kết hợp REDD+ với dự án khu vực PNKB vì lý do: các lợi ích đồng thời của REDD+ là một lĩnh vực khá phức tạp, đòi hỏi có nguồn lực riêng, vượt xa phạm vi của một hợp phần của một dự án hoặc của một chương trình.” II Bối cảnh về hoạt động đánh giá tiềm năng REDD tại tỉnh Quảng Bình

Là một quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ hệ quả của việc mất rừng và đồng thời cũng là quốc gia dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam nhận thức và cam kết tham gia vào quy trình REDD+. Trong thời gian gần đây, có hàng loạt sáng kiến, hoạt động đã được đề xuất nhằm hưởng ứng vấn đề này tại Việt Nam, với nhiều chương trình, dự án được nhiều tổ chức khác nhau tài trợ. Nổi bật nhất, Việt Nam đã tích cực tham gia làm thanh viên của Quỹ đối tác các-bon trong lâm nghiệp (FCPF) và Chương trình UN-REDD, đã xây dựng Chương trình Hành động quốc gia về REDD+ và chuẩn bị sẵn sàng cho quá trình thực hiện. Tuy vậy, ở cấp quốc gia, quy trình này vẫn đang tập trung vào việc làm rõ chức năng nhiệm vụ của các bên liên quan khác nhau và xác định các quy trình thủ tục hành chính. Tuy nhiên, các quy trình chuẩn bị tổ chức thực hiện REDD+ ở cấp quốc gia còn phức tạp, với hầu hết các nỗ lực tập trung vào:  Thiết lập cấp tham chiếu và hệ thống Giám sát, Báo cáo và Kiểm chứng (MRV) tương ứng – đòi hỏi thu thập dữ liệu thông qua hệ thống viễn thám và điều tra tại thực địa.

 Thiết lập khung thể chế và xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan  Thiết lập quy trình có sự tham gia về việc xây dựng chiến lược quốc gia về REDD+

Để giảm bớt phức tạp và cung cấp các giải pháp thực tế, một cách tiếp cận toàn diện ở cấp tỉnh là cần thiết. Một dự án thí điểm REDD tại tỉnh Quảng Bình là nhằm cung cấp kinh nghiệm thực tiễn và bài học hữu ích trong việc thực hiện các khái niệm chung hiện có. Việc đặt ra trọng tâm trong các khái niệm tập trung vào việc các biện pháp chống mất rừng và suy thoái rừng sẽ cung cấp các chiến lược rất cần thiết nhằm đạt được các kết quả lâu dài. Đặc biệt, sự tích hợp các chiến lược sử dụng đất đối với lĩnh vực nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng để đạt được các kết quả lâu dài - điều này được nhấn mạnh hơn nữa trong công bố của Chính phủ Việt Nam hướng đến mục tiêu giảm 20% lượng khí thải nhà kính từ nông nghiệp.58 Vấn đề cốt lõi: Các kinh nghiệm tổ chức thực hiện REDD và REDD+ trên thực tiễn vẫn còn quá ít và hiện là một nhu cầu cấp thiết đối với một đơn vị hành chính phức tạp song có thể quản lý được ở cấp tỉnh nhằm xúc tiến việc phân biệt rõ các biện pháp khích lệ, các chức năng nhiệm vụ và các quy trình khác nhau nhằm thực hiện hiệu quả hơn. Quảng Bình đã được đề xuất lựa chọn thực hiện REDD+ bởi vì tỉnh có những đặc điểm đặc biệt phù hợp để tổ chức hoạt đông thí điểm đề cập ở trên:

 Có mối quan hệ được thiết lập tốt thông qua việc thực hiện một số các chương trình của GIZ, bao gồm “Chương trình xúc tiến lâm nghiệp bền vững” (hướng đến chứng chỉ FSC

vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020 (tương đương 19 triệu tấn CO2)

58 Quyết định 3119/QĐ-BNN-KHCN ngày 16/12/2011 về việc giảm 20% tổng phát thải khí nhà kính trong lĩnh

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

48

cho lâm trường quốc doanh” cũng như Dự án “Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng”, Việt Nam  Có môi quan hệ công tác tốt với Công ty Lâm công nghiệp Long Đại, một trong hai công ty lâm nghiệp của tỉnh.

 Có kinh nghiệp làm việc lâu dài với Tổ chức hợp tác phát triển Đức trong lĩnh vực lâm nghiệp (bắt đầu với chương trình trồng rừng do hợp phần Hỗ trợ Tài chính hỗ trợ năm 1996).

 Mối quan tâm từ phía UBND tỉnh Quảng Bình về việc tham gia vào quá trình thực hiện REDD đã được bày tỏ trong chuyến công tác của GIZ tìm hiểu thực tế về đa dạng sinh học đầu năm 2012.

III Cấu trúc tiềm năng của Dự án REDD+ Với sự hỗ trợ của Trụ sở GIZ tại Đức (Ts. Elke Foerster), các phương án cho quy trình xây dựng đề xuất nhỏ cho dự án REDD+ tại tỉnh QUảng Bình đã được đánh giá. Mục tiêu nghiên cứu đề xuất Thúc đẩy, hoàn thiện cơ sở dữ liệu nhằm xây dựng khung các biện pháp xã hội an toàn (sử dụng đất, sở hữu đất đai, sinh kế, sự tham gia) và chuẩn bị cho quá trình thực hiện thí điểm. Các bước kỹ thuật

Các biện pháp an toàn xã hội – nghiên cứu cơ sở dựa trên nghiên cứu của Gebert  Phân tích pháp lý: phân tích thực trạng pháp lý và các mục tiêu phát triển

o Phân tích các cam kết của Việt Nam với thế giới về tham vấn người dân (FPIC)/quyền người bản địa (đề cập trong các văn bản quốc tế UNDRIP, ILO-169, CBD, ICERD), các quyền quy định theo hiến pháp (ví dụ về các quyền bản địa, dân tộc thiểu số, các quyền về môi trường, sở hữu đất đai) và các mục tiêu phát triển (giảm nghèo và các kế hoạch phát triển kinh tế);

o Phân tích pháp luật quốc gia, các chính sách, quy định và chiến lược liên quan đến người bản địa hoặc người dân tộc thiểu số, việc sử dụng và sở hữu đất đai, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên rừng, các quá trình có sự tham gia và tham vấn (ví dụ như luật về rừng, các chính sách về sử dụng và sở hữu đất, kế hoạch quản lý rừng và đất đai, quy trình tham vấn có sự tham gia);

o Tổng hợp và mô tả hiện trạng pháp lý o Mô tả tiềm năng và mối liên quan trong việc sử dụng phương pháp tham vấn người dân (FPIC) đối với quản lý rừng cộng đồng và mở rộng VQG, chiến lược REDD+ trong bối cảnh pháp lý ở tỉnh Quảng Bình

 Đánh giá tác động xã hội có sự tham gia về lập quy hoạch sử dụng đất (ví dụ như các cộng đồng để thực hiện quản lý rừng cộng đồng trong vùng đệm VQG), bao gồm phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương trong cộng đồng: Phân tích quyền sở hữu đất đai, mối liên hệ với sinh kế và những nguy cơ và/hoặc tác động của quy hoạch sử dụng đất đến sinh kế

o Thu thập thông tin về dân số và đói nghèo o Phân tích hiện trạng sở hữu đất đai (các tài sản đất đai và rừng và/hoặc quyền sử dụng, quyền bảo hộ và pháp lý, quyền của tập thể và cá nhân, các mâu thuẫn hiện có hoặc tiềm tàng) o Xác định các cách thức quản lý rừng và tính toán tác động của phương pháp du canh hoặc các hình thức sử dụng đất truyền thống khác, ví dụ như:  Các loài cây được sử dụng, phân loại và ước tính khối lượng sử dụng

 (buôn án, xây dựng, làm hàng rào, làm củi, vv...) Các phương pháp thu hoạch (kỹ thuật, khoảng cách đến các thôn bản, những người có liên quan)

 Các lâm sản ngoài gỗ được sử dụng  Các khu đất dành làm nông trại và các mùa vụ chính

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

49

o So sánh các nguồn thu nhập của hộ gia đình trước và sau khi có VQG/Lâm

o trường (Tìm hiểu phương pháp sử dụng đất thay thế cho cộng đồng vùng đệm VQG)  Tổng hợp và truyền thông

o Tổng hợp dữ liệu phản ánh các khoảng cách và những điểm còn mâu thuẫn, bao gồm khoảng cách giữa hiện trạng pháp lý/mục tiêu phát triển và tác động xã hội/môi trường

o Viết báo cáo phân tích mô hình/kỹ thuật hiện trạng sử dụng đất và ước tính tác động. Thảo luận chiến lược sử dụng đất thay thế đã xác định (nhằm thúc đẩy tính bền vững) và các thay đổi cần thiết trong việc giao đất và phân bố quyền sử dụng đất (ý kiến chuyên gia)

o Xây dựng chiến lược/tài liệu truyền thông phù hợp (tài liệu để nhân rộng) o Tổ chức hội thảo chia sẻ kết quả phân tích các khoảng cách và đánh giá tác động xã hội với chính quyền các huyện và đại diện cộng đồng, nhằm đi đến đồng thuận đối với quy trình tiếp theo (các bước tiếp theo là các bước thực hiện với đối tác nhằm xác định các cải cách cần thay đổi, các mục tiêu và chỉ số giám sát, các cơ chế chia sẻ lợi ích) (chi trả dịch vụ môi trường (PES), quản lý rừng cộng đồng/nhà nước, liên quan đến các lâm trường) o Tài liệu hóa kết quả hội thảo và dự thảo các bước tiếp theo

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

50

Phương pháp luận và khung thời gian

Phương pháp Nghiên cứu tài liệu

Nghiên cứu Phân tích pháp lý: phân tích thực trạng pháp lý và các mục tiêu phát triển

Nghiên cứu tài liệu

Nhiệm vụ Phân tích các cam kết của Việt Nam với thế giới về tham vấn người dân (FPIC)/quyền người bản địa (đề cập trong các văn bản quốc tế UNDRIP, ILO- 169, CBD, ICERD), các quyền quy định theo hiến pháp (ví dụ về các quyền bản địa, dân tộc thiểu số, các quyền về môi trường, sở hữu đất đai) và các mục tiêu phát triển (giảm nghèo và các kế hoạch phát triển kinh tế); Phân tích pháp luật quốc gia, các chính sách, quy định và chiến lược liên quan đến người bản địa hoặc người dân tộc thiểu số, việc sử dụng và sở hữu đất đai, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên rừng, các quá trình có sự tham gia và tham vấn (ví dụ như luật về rừng, các chính sách về sử dụng và sở hữu đất, kế hoạch quản lý rừng và đất đai, quy trình tham vấn có sự tham gia); Tổng hợp và mô tả hiện trạng pháp lý; Mô tả tiềm năng và mối liên quan trong việc sử dụng phương pháp tham vấn người dân (FPIC) đối với quản lý rừng cộng đồng và mở rộng VQG, chiến lược REDD+ trong bối cảnh pháp lý ở tỉnh Quảng Bình Thu thập thông tin về dân số và đói nghèo

theo Nghiên cứu tài liệu (+phỏng vấn định tính?) Phỏng vấn định tính, Lập sơ đồ nhóm

Phỏng vấn định tính, đi thực địa

phỏng vấn định tính/định lượng, đi thực địa

Đánh giá tác động xã hội có sự tham gia về lập quy hoạch sử dụng đất (ví dụ như các cộng đồng để thực hiện quản lý rừng cộng đồng trong vùng đệm VQG), bao gồm phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương trong cộng đồng: Phân tích quyền sở hữu đất đai, mối liên hệ với sinh kế và những nguy cơ và/hoặc tác động của quy hoạch sử dụng đất đến sinh kế - phỏng vấn định tính/định lượng

Nghiên cứu tài liệu

Tổng hợp và truyền thông

Phân tích hiện trạng sở hữu đất đai (các tài sản đất đai và rừng và/hoặc quyền sử dụng, quyền bảo hộ và pháp lý, quyền của tập thể và cá nhân, các mâu thuẫn hiện có hoặc tiềm tàng) Xác định các cách thức quản lý rừng và tính toán tác động của phương pháp du canh hoặc các hình thức sử dụng đất truyền thống khác So sánh các nguồn thu nhập của hộ gia đình trước và sau khi có VQG/Lâm trường Phân tích mối quan hệ với các lâm trường, vai trò của thương nhân và cơ chế làm giá để mua bán gỗ từ những hộ buôn nhỏ lẻ hoặc từ cộng đồng (Tìm hiểu phương pháp sử dụng đất thay thế cho cộng đồng vùng đệm VQG) Tổng hợp dữ liệu phản ánh các khoảng cách và những điểm còn mâu thuẫn, bao gồm khoảng cách giữa hiện trạng pháp lý/mục tiêu phát triển và tác động xã hội/môi trường

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

51

Nghiên cứu Phương pháp

Nghiên cứu tài liệu

Tổ chức (nội dung, hậu điều cần) hành, tài liệu hóa

Nhiệm vụ Viết báo cáo phân tích mô hình/kỹ thuật hiện trạng sử dụng đất và ước tính tác động. Thảo luận chiến lược sử dụng đất thay thế đã xác định (nhằm thúc đẩy tính bền vững) và các thay đổi cần thiết trong việc giao đất và phân bố quyền sử dụng đất (ý kiến chuyên gia) Xây dựng chiến lược/tài liệu truyền thông phù hợp (tài liệu để nhân rộng) Tổ chức hội thảo chia sẻ kết quả phân tích các khoảng cách và đánh giá tác động xã hội với chính quyền các huyện và đại diện cộng đồng Tài liệu hóa kết quả hội thảo và dự thảo các bước tiếp theo

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

52

Phụ lục 2: Các cá nhân đã phỏng vấn và Chương trình công tác

Các cá nhân đã phỏng vấn

Ts. Phạm Mạnh Cường Bà Nguyễn Thị Thu Huyền UN-REDD Việt Nam Bà Akiko Inoguchi Bà Pham Thu Thuy

FAO CIFOR

Ông Björn Wode

GFA

Giám đốc Quản lý Chương trình Cán bộ Chương trình Lâm nghiệp Cán bộ nghiên cứu cấp cao Cố vấn trưởng (bán thời gian) các dự án lâm nghiệp do KfW hỗ trợ (Việt Nam và Trung Quốc).

Bà Tô Thị Thu Hương Ông Nguyễn Tân

Chương trình Lâm nghiệp Việt-Đức Điều phối chương trình RECOFTC

Ông Steven Swan

SNV

Cố vấn trưởng và đồng điều phối Tiểu nhóm công tác kỹ thuật về các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội

Ông Bas Van Helvoort

KfW/AHT Cố vấn trưởng

Ông Bill Bleisch

Tư vấn lập kế hoạch chiến lược VQG PNKB

Dự án Việt-Đức Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Dự án Việt-Đức Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên khu vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp Quảng Bình Cán bộ kỹ thuật Chi cục Lâm nghiệp Quảng Bình Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Bố Trạch Chủ tịch UBND xã Xuân Trạch Chủ tịch HĐND xã Hưng Trạch Chủ tịch UBND xã Hưng Trạch Cán bộ địa chính UBND xã Hưng Trạch Trưởng thôn Thôn 3, xã Xuân Trạch Bí thư chi bộ Thôn 3, xã Xuân Trạch Trưởng thôn Thôn 9, xã Xuân Trạch Chủ tịch Hội phụ nữ thôn Thôn 9, xã Xuân Trạch Bí thư chi bộ Thôn Đông Giang, xã Hưng Trạch Thôn Đông Giang, xã Hưng Trạch Trưởng thôn Thôn Thanh Bình 3, xã Hưng Trạch Trưởng thôn Thôn Thanh Bình 3, xã Hưng Trạch Chủ tịch Hội phụ nữ thôn UBND huyện Minh Hóa UBND huyện Minh Hóa Bản Hà Vi, xã Dân Hóa Bản Hà Vi, xã Dân Hóa Bản Bãi Dinh, xã Dân Hóa Xã Trường Sơn Xã Trường Sơn Xã Trường Sơn Bản Chân Troộng, xã Trường Sơn Bản Cây Cà, xã Trường Sơn Bản Khe Cát, xã Trường Sơn

Phó chủ tịch Phòng TNMT huyện Phó trưởng bản Phó trưởng bản Trưởng bản Phó chủ tịch Phó chủ tịch Chủ tịch Hội phụ nữ xã Chủ tịch Hội phụ nữ bản Trưởng bản Trưởng bản

Ông Nguyễn Văn Long Ông Hoàng Thanh Trà Ông Tân Ông Lê Thanh Huy Ông Dan Ông Thang Ông Hiep Ông Trach Ông Ông Thuc Bà Huong Ông Đõ Lợi Ông Nguyễn Quốc Dụ Ông Cao Tiến Thanh Bà Hương Ông Đinh Hữu Niên Ông Hùng Ông Hồ Xi Ông Hồ Thoong Ông Cao Quý Nhung Ông Hải Ông Dung Bà Trương Thị Hiền Bà Hồ Thị Hoa Ông Le Hong Na Ông Van Hoa Ghi chú: Danh sách này không bao gồm số lượng phụ nữ và đàn ông tham gia các cuộc phỏng

Họ và tên Tổ chức Chức vụ Văn phòng REDD Việt Nam

vấn nhóm (tối thiểu 15-20 người tại mỗi thôn bản nơi nhóm công tác tiến hành phỏng vấn).

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

53

Chương trình nghiên cứu các yếu tố đảm bảo an toàn REDD+

Địa điểm Hoạt động

Thứ ngày Ngày tháng 31/10 Hà Nội Hà Nội 1/11 Thứ Tư Thứ Năm

Thứ Sáu 2/11 Hà Nội

Thứ Bảy Sun Thứ Hai 3/11 4/11 5/11 Hà Nội Đồng Hới Đồng Hới

Tues 6/11 Đồng Hới

Thứ Tư 7/11 Đồng Hới

Thứ Năm 8/11 Bố Trạch

Thứ Sáu 9/11 Bố Trạch

Thứ Bảy 10/11 Bố Trạch

Chủ nhật Thứ Hai 11/11 Đồng Hới 12/11 Minh Hóa

Thứ Ba 13/11 Minh Hóa

Thứ Tư 14/11 Minh Hóa

Đến muộn (buổi tối) Làm việc với tư vấn REDD cấp quốc gia, Ông Phương. Làm việc với Bà Akiko Inoguchi - Cán bộ Chương trình Lâm nghiệp FAO. Làm việc với Ts. Jen Kallabinski. Dự cuộc họp về trình bày hệ thống chia sẻ lợi ích tại Bộ NN&PTNT. Làm việc với Ts. Phạm Mạnh Cường Giám độc Văn phòng REDD+, DOSTIC. Làm việc với Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Quản lý Chương trình UN- REDD Việt Nam. Nghiên cứu trên Internet. Làm việc với Bà Tô Thị Thu Hương. Đến Đồng Hới Thảo luận công việc tại dự án. Làm việc nhanh với Chi cục Lâm nghiệp Làm việc với Ông Bas Helvoort, Cố vấn trưởng KfW/AHT và Ông Bill Bleisch, Tư vấn lập kế hoạch chiến lược VQG PNKB. Nghiên cứu trên Internet. Hoàn thiện chương trình công tác Thảo luận với Hạt Kiểm lâm huyện Bố Trạch. Thảo luận với lãnh đạo và cán bộ UBND xã Xuân Trạch Thảo luận với lãnh đạo và cán bộ UBND xã Hưng Trạch Làm việc với Ban quản lý VQG PNKB Làm việc với thôn người Kinh tại xã Xuân Trạch: Thôn 3 Làm việc với thôn người Kinh tại xã Xuân Trạch: Thôn 9 Làm việc với thôn người Kinh tại xã Hưng Trạch: Đông Giang Làm việc với thôn người Kinh tại xã Hưng Trạch: Thanh Bình 3 Phân tích và rà soát số liệu: Bố Trạch Làm việc với lãnh đạo và cán bộ UBND huyện Minh Hóa Làm việc với Hạt trưởng và cán bộ Hạt kiểm lâm huyện. Đi thôn Thuận Hóa - người Kinh, xã Hóa Sơn Đi bản Hóa Lương - người dân tộc Sách, xã Hóa Sơn. Làm việc với lãnh đạo và cán bộ UBND xã Hóa Sơn Làm việc với lãnh đạo và cán bộ UBND xã Dân Hoa. Đi bản Hà Vi - người dân tộc Khùa, xã Dân Hóa. Đi bản Bãi Dinh - người dân tộc Sách, xã Dân Hóa 15/11 Quảng Ninh Làm việc với lãnh đạo xã Trường Sơn Đi bản Chân Troộng - người dân tộc Vân Kiều, xã Trường Sơn. Thứ Năm Thứ Sáu

Thứ Bảy Chủ nhật Thứ Hai 16/11 17/11 18/11 Đồng Hới 19/11 Đồng Hới

Thứ Ba 20/11 Đồng Hới

Thứ Tư 21/11 Đồng Hới

Thứ Năm Thứ Sáu 22/11 Hà Nội 23/11 Hà Nội

Quảng Ninh Đi bản Cây Cà - người dân tộc Vân Kiều, xã Trường Sơn. Đi bản Khe Cát - người dân tộc Vân Kiều, xã Trường Sơn. Phân tích số liệu Phân tích số liệu và chuẩn bị bài trình bày Làm việc với Chi cục Kiểm lâm: Ông Hùng - Chi cục phó và Ông Bút - Trưởng phòng bảo vệ rừng. Làm việc với Sở TNMT: Ông Ngân - Phó giám đốc và các cán bộ Chuẩn bị bài trình bày; Trình bày các kết quả phát hiện trước Ban quản lý Dự án Thảo luận tổng hợp tại Dự án. Đi Huế và Hà Nội Làm việc với Nguyễn Văn Tân, RECOFTC Làm việc với các đồng nghiệp GIZ của Chương trình Lâm nghiệp Việt-Đức: Ông Eberhard Goetz, Ông Heiko Woerner, Ông Phạm Quốc Tuấn.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

54

Địa điểm Hoạt động Thứ ngày Ngày tháng

Thứ Bảy Chủ nhật 24/11 Hà Nội 25/11 Hà Nội Làm việc với Ông Steven Swan, đồng điếu phối Tiểu nhóm công tác kỹ thuật về các biện pháp đảm bảo an toàn xã hội Việt Nam. Làm việc với Ts. Cường, Giám đốc Văn phòng VN-REDD+ Chuẩn bị báo cáo và nghiên cứu internet. Các hoạt động liên quan đến báo cáo. Trở về Đức

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

55

Phụ lục 3: Thông tin cơ bản về các xã vùng đệm

Tình hình dân số của các nhóm dân tộc thiểu số tại các xã vùng đệm

Xã Nhóm dân tộc thiểu số Số hộ DTTS Số người DTTS Số hộ Kinh Tổng số hộ

% số hộ DTTS trên tổng số hộ

Trung Hóa

19

105

1,205

1,224

1.6

Dân Hóa

663

2,941

50

713

92.9

Trọng Hóa

653

3,390

32

685

95.3

Hóa Sơn

235

1,084

122

357

65.8

Thượng Hóa

180

771

535

715

25.2

Sách (Chứt) Mường Bru Khùa Mày (Chứt) Sách (Chứt) Bru Khùa Mày (Chứt) Sách (Chứt) Thổ Rục (Chứt) Sách, Mày (Chứt)

0 0 28 61

0 0 140 283

2,725 2,498 2,521 3

2,725 2,498 2,549 64

0 0 1.1 95.3

24

440

416

2,090

94.5

0 0

0 0

682 1,310

682 1,310

0 0

Minh Hóa

2,407

Bố Trạch Hưng Trạch Phúc Trạch Sơn Trạch Bru Macoong Tân Trạch Arem (Chứt) Thượng Trạch Bru Macoong Phú Định Xuân Trạch Quảng Ninh Trường Sơn

TOTAL

549 2,804

390 13,211 12,097

939 14,901

58.5 18.8

Bru Vân Kiều

Ghi chú: Số liệu dân số được thu thập từ nhiều nguồn, chủ yếu là của Ban dân tọc và miền núi tỉnh (số liệu 2009), những cũng đã được cập nhật các số liệu về dân số của các huyện và các xã năm 2011.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

56

Đất hoa màu hằng năm tại các xã vùng đệm (ha)59

Huyện Xã Số hộ Diện tích theo hộ Diện tích đất hoa màu hằng năm

Minh Hóa

1,224 713 685 357 715 2,725 2,498 2,549

556.0 190.0 174.0 217.2 462.2 748 862 737

0.45 0.27 0.25 0.60 0.65 0.27 0.35 0.29

Trung Hóa Dân Hóa Trọng Hóa Hóa Sơn Thượng Hóa Hưng Trạch Phúc Trạch Sơn Trạch Tân Trạch

Bố Trạch

504

535

1.06

Thượng Trạch

Phú Định Xuân Trạch

682 1,310

589 654

0.86 0.50

Quảng Ninh

Trường Sơn

939

268.3

0.29

Ghi chú: Nguồn: Niên giám thống kê huyện. Không thể hiện thông tin các khu vực nhỏ bổ sung thuộc danh mục cây ăn quả hoặc cây tiêu. Không có diện tích đất canh tác nương rẫy (được xếp lại “đất rừng”)

So sánh số hộ nghèo tại vùng đệm - Thay đổi theo thời gian Hộ nghèo (%) Xã 2011 2010 2009 2007 2006 2005

60 88 87 52 49 54 95 94 57 49 58 91 89 68 79 39 85 88 43 49 53 87 93 50 54 54 95 94 57 49

21 46 34 93 98 17 54 24 26 28 92 97 15 49 28 68 33 100 97 16 66 17 19 19 90 99 12 34 22 23 26 100 100 16 45 24 26 28 92 97 15 49

Ghi chú: Nguồn Sở LĐ-TB-XH. Số % đã được làm tròn lên nếu phần thập phân từ .50 trở lên, và làm tròn xuống nếu từ .49 trở xuống. Bảng này cho thấy tỉ lệ nghèo trong năm 2011 tại các xã cao hơn nhiều hoặc rất nhiều so với năm 2005.

Huyện Minh Hóa Trung Hóa Dân Hóa Trọng Hóa Hóa Sơn Thượng Hóa Huyện Bố Trạch Hưng Trạch Phúc Trạch Sơn Trạch Tân Trạch Thượng Trạch Phú Định Xuân Trạch Huyện Quảng Ninh Trường Sơn 67 53 n/a n/a 67 77

59 Số liệu trong bảng này được trích từ Niên giám thống kế của huyện trong các năm 2007 và 2010. Trong hai năm này, các diện tích hoa màu hằng năm (lúa, ngô, lạc, sắn, đậu xanh và khoai lang) hoặc diện tích trồng lúa và ngô đã được trình bày trong bảng trê, tùy theo số liệu nào có chỉ số lớn hơn.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

57

Phụ lục 4: Bảng câu hỏi phỏng vấn

Khung câu hỏi dự kiến dành cho các trưởng thôn/bản và thảo luận nhóm trọng tâm tại thôn bản: Đất rừng, các nguồn sinh kế dựa vào rừng, và các hoạt động liên quan đến rừng

Đất rừng và quản lý đất rừng

Các nguồn sinh kế dựa vào rừng

A. Loại đất rừng nào nằm sát với thôn/bản của anh chị? VQG PNKB? LTQD? Ban QLRPH? Đất rừng do xã quản lý? Đất rừng do hộ hoặc nhóm hộ quản lý? Bao nhiêu? Từ bao giờ? Đối với đất rừng do địa phương quản lý: phân loại đất rừng là gì? (phòng hộ, sản xuất) Đối với đất rừng do địa phương quản lý: anh chị làm gì với diện tích đất rừng này? Nếu là diện tích rừng trồng/sản xuất, anh chị sẽ trồng loại cây nào? Từ bao giờ? Anh chị lấy cây giống ở đâu? Đã đầu tư bao nhiêu? Anh chị đã bán gỗ rừng trồng hay chưa? Thu nhập bao nhiêu? Nếu là rừng phòng hộ, anh chị sẽ làm gì? Anh chị đã bao giờ trồng các loài cây bản địa hay chưa? Ành chị làm thế nào để nhận biết các ranh giới đất rừng khác nhau? Có dấu hiệu hay cột mốc gì không? Anh chị có muốn cộng đồng của mình được giao thêm nhiều đất rừng hơn hay không? Nếu có, tại sao? Nến giao đất rừng như thế nào? (hộ gia đình, nhóm hộ, cả thôn/bản). Anh chị sẽ làm gì với đất rừng được giao? Có những khó khăn, thách thức gì khi giao đất rừng cho hộ gia đình? Nhóm hộ? Cộng đồng thôn/bản? Nếu đất rừng được giao cho các hộ gia đình, ai nên được giao đất rừng? Đất rừng nên được giao như thế nào? Giao giống nhau cho tất cả mọi người? Nên giao khu vực nào cho hộ gia đình nào? Anh chị có muốn được cấp Sổ Đỏ đất rừng cho bất kỳ diện tích đất rừng nào hay không? Nếu có, tại sao? Nếu không, tại sao không? Anh chị đánh giá Chất lượng của đất rừng gấn với thôn bản của mình nhất như thế nào? Chất lượng rừng có thay đổi theo thời gian hay không? Thay đổi theo chiều hướng nào? Tại sao? Anh chị có ý kiến gì về sự thay đổi chất lượng rừng? Cách tốt nhất để thay đổi chất lượng rừng là gì? Có người từ thôn bản khác, xã khác hoặc huyện khác đi vào các khu vực rừng ở đây hay không? Họ làm gì ở trong rừng? Ai nên quản lý và bảo vệ rừng tại khu vực này? Có nên chi trả cho người dân để bảo vệ rừng hay không? Nên làm như thế nào? B. 1. Lâm sản ngoài gỗ Tự sử dụng (Thức ăn cho người và động vật, làm mái nhà, làm thuốc, đồ thủ công mỹ nghệ, hoa phong lan)

Liệt kê danh sách các loại lâm sản ngoài gỗ. Ai thu hái? Đàn ông? Phụ nữ? Trẻ em? Thu hái ở đâu? 1a. Lâm sản ngoài gỗ để tạo thu nhập (bao gồm hàng thủ công mỹ nghệ/mật ong rừng): Liệt kê danh sách các loại lâm sản ngoài gỗ. Ai thu hái? Đàn ông? Phụ nữ? Trẻ em? Thu hái ở đâu? Nếu là đồ thủ công mỹ nghệ: Ai làm? Ai bán? Bán ở đâu? Bán như thế nào? Lấy tiền mặt hay ứng tiền trước? Hoạt động thu hái được thực hiện như thế nào? Để bán? Ai bán? Bán ở đâu? (Thương nhân đến nhà mua? Người dân đem ra chợ hoặc các nơi khác đến bán?) Người mua có yêu cầu mua các loại sản phẩm cụ thể nào hay không?

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

58

Gỗ

Dùng trong gia đình

Củi

Ai thu gom? Ở đâu? Có vấn đề gì về sự sẵn có các loài cây lấy củi hay không? Ở

Ai mua củi (nếu cần)? Loại cây nào được dùng để làm củi? Loại nào tốt nhất? Có ai trồng cây để lấy củi hay không?

Có ai làm than củi để dùng trong gia đình hay không? Loại gỗ nào được dùng đểl

Than củi

Quan trọng! Sự thay đổi theo thời gian! Liệu có hay không việc người dân trước kia thường thu hái lâm sản ngoài gỗ nhưng giờ không thu hái nữa? Việc thành lập VQG PNKB trong năm 2001 có tạo ra sự khác biệt trong việc thu hái các loại lâm sản ngoài gỗ của người dân hay không?. 2. đâu? làm than củi?

Ai khai thác? Ở đâu? Vì mục đích gì? Có vấn đề gì hay không?

Gỗ (Loại cây nào được dùng để lấy gỗ sử dụng trong gia đình? Cấp đường kính nào? Cây gỗ được

chặt hạ và/hoặc thu gom ở đâu?)

Dùng kỹ thuật khai thác nào?

Gỗ

Tạo thu nhập:

Ai bán, đàn ông hay phụ nữ? Bán như thế nào?

Ai khai thác để bán? Ai làm? Loại gỗ nào được dùng đểl làm than củi? Ai khai thác gỗ để bán? Bán ở đâu? Ai bán? Bán như thế nào?

Củi? Than củi? Gỗ? (Loại cây nào được dùng để lấy gỗ bán?) Dùng kỹ thuật khai thác nào?

Có các loại cây có giá trị trong khu vực có thể khai thác hay không? Loại cây gì? Ở đâu? Giá bán khác nhau cho các loại gỗ khác nhau hay không? Dùng kỹ thuật khai thác nào?

Các hoạt động sử dụng và bảo vệ các khu vực rừng khác

Nương rẫy?

Lao động hoặc các cơ hội kiếm thu nhập với VQG PNKB hoặc với các LTQD

VIệc nghiêm cấm và bảo vệ rừng theo tập tục:

Tiếp cận các dịch vụ công (đặc biệt là dịch vụ khuyến lâm) (tiếp cận của đàn ông/phụ nữ)

2a. Nếu anh chị bán gỗ hoặc than củi: Ai ấn định giá bán? Ấn định giá bán theo cách nào? 3. Chăn thả động vật? Có các hợp đồng giao khoán bảo vệ rừng hay không? Khi nào? Ở đâu? Bao nhiêu đất? Nhận được bao nhiêu tiền? Có thanh toán bằng hiện vật hay không? Thôn bản có Quy ước bảo vệ rừng hay không? Nếu có, có những nội dung gì? Các nội dung Quy ước được xây dựng như thế nào? Người dân trong thôn bản có tuần tra rừng hay không? Cho ai? Ở đâu? Có thường xuyên hay không? Được chi trả bao nhiêu? 4. Ai? Ở đâu? Khi nào? Bao nhiêu? Qua thời gian, có sự thay đổi nào hay không? C. Dựa trên các tập tục: Quanh thôn bản có khu vực nào hạn chế hoặc cấm thu hái, săn bắt lâm sản ngoài gỗ, gỗ, động vật hay không? Tại sao? Có khu vực rừng chôn cất người chết hay không? Có khu vực rừng thiêng hay không? D. Anh chị đã từng nhận được các hoạt động hỗ trợ khuyến lâm về đất rừng trong khu vực này hay chưa? (lời khuyên, hỗ trợ lập kế hoạch, hỗ trợ cây giống, v.v...)

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

59

Phụ lục 5: Tuyển tập các tài liệu pháp lý liên quan

Tuyển tập các tài liệu pháp lý liên quan đến Rừng, Biến đổi khí hậu, REDD, các LTQD và sử dụng đất tại Việt Nam Dựa trên danh sách các tài liệu pháp lý được cung cấp tại http://www.vietnam-redd.org/Web/ [Tháng 11 năm 2012]. Phần này giúp chúng ta hiểu rõ về hệ thống chính sách/pháp luật tại Việt Nam để biết rằng có một hệ thống phân cấp riêng biệt của luật, nghị quyết và quyết định được quy định như sau (theo quy định tại Điều 1 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12 tháng 11 năm 1996, sửa đổi ngày 16 tháng 12 2002) (sao chép từ WWF mạng lưới tlâm sản và hương mại toàn cầu: khung pháp lý chung cho việc đánh giá tính pháp lý của các hoạt động lâm nghiệp, chế biến và thương mại gỗ - các nguyên tắc, tiêu chí và chỉ số cho Việt Nam, truy cập tại thời điểm tháng 11 năm 2012 từ http://sourcing.gftn.panda.org/files/PDF/legality_framework_vietnam.pdf : . Cấp có thẩm quyền Văn bản

Quốc hội Ủy ban Thường vụ Quốc hội Chủ tịch nước Chính phủ Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ

Hiến pháp, Luật, Nghị quyết Sắc lệnh, Nghị quyết Pháp lệnh, Quyết định Nghị quyết, Nghị định Quyết định, Chỉ thị Quyết định, Chỉ thị, Thông tư, Thông tư liên tịch (được ban hành chung bởi các bộ khác nhau hoặc bởi mọt bộ và một tỏ chức chính trị xã hội) Nghị quyết

Quyết định, Chỉ thị

Nghị quyết Quyết định, Chỉ thị

Hội đồng Tư pháp của Tòa án Nhân dân tối cao Chánh án Toà án nhân dân tối cao/Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân Các văn bản pháp luật sau đây được liệt kê từ các văn bản gần đây nhất theo mỗi loại tài liệu pháp lý tương ứng. Chúng chỉ bao gồm các luật, các nghị định, các nghị quyết và các quyết định ở cấp quốc gia.

Số hiệu

Mô tả

Ngày tháng

1. Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng

1.1 Luật (được Quốc hội phê chuẩn) 45/2009/QH12

Luật Thuế tài nguyên (Click here)

20/2008/QH12 Luật Đa dạng sinh học (Click here)

52/2005/QH11 Luật bảo vệ môi trường (Click here)

29/2004/QH11 Luật bảo vệ và phát triển rừng (Click here)

04/12/2009 Hiệu lực 01/07/2010 28/11/2008 Hiệu lực 01/07/2009 12/12/2005 Hiệu lực 01/07/2006 14/12/2004 Hiệu lực 01/04/2005

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

60

Số hiệu

Mô tả

Ngày tháng

1.2 Nghị định Chính phủ

117/2010/ND- CP Nghị định về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng (Click here)

50/2010/ND-CP Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế tài nguyên (Click here)

01/2008/ND-CP Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ NN&PTNT (Click here)

48/2007/ND-CP Nghị định về nguyên tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng (Click here)

Nghị định về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm (Click here) 119/2006/ND- CP

23/2006/ND-CP Nghị định về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng (Click here) 24/12/2010 Hiệu lực 01/03/2011 14/05/2010 Hiệu lực 01/07/2010 03/01/2008 Hiệu lực 26/01/2008 28/03/2007 Hiệu lực 04/05/2007 16/10/2006 Hiệu lực 15/11/2006 03/03/2006 Hiệu lực 25/03/2006

1.3 Quyết định của Thủ tướng chính phủ 24/2012/QD- TTg

Quyết định về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011-2020

126/QD-TTg Quyết định thí điểm chia sẻ lợi ích trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững rừng đặc dụng (chỉ có bản tiếng Việt)

07/2012/QD- TTg Quyết định ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng. (chỉ có bản tiếng Việt) 01/06/2012 Hiệu lực 0?/0?/2012 02/02/2012 Hiệu lực 02/02/2012 08/02/2012 Hiệu lực 30/03/2012

57/QĐ-TTg Quyết định phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 (Click here) 09/01/2012 Hiệu lực 09/01/2012

66/2011/QD- TTg Quyết định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/07/2007 về chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015 (Click here) 09/12/2011 Hiệu lực 01/02/2012

1240/QD-TTg Quyết định phê duyệt Đề án điểm điều tra, kiểm kê rừng tại hai tỉnh Bắc Kạn và Hà Tĩnh (chỉ có bản tiếng Việt) 22/07/2011 Hiệu lực 22/07/2011

34/2011/QD- TTg Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều Quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/08/2006 của Thủ tướng Chính phủ (Click here) 24/06/2011 Hiệu lực 19/08/2011

73/2010/QĐ- TTg Quyết định ban hành Quy chế quản lý đầu tư xây dựng công trình lâm sinh (Click here) 16/11/2010 Hiệu lực 01/01/2011

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

61

Mô tả

Số hiệu 39/2009/QĐ- TTg

Quyết định ban hành Quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng (chỉ có bản tiếng Việt)

Ngày tháng 09/03/2009 Hiệu lực 09/03/2009

147/2007/QD- TTg Quyết định về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015 (Click here)

18/2007/QD- TTg Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 (Click here) 10/09/2007 Hiệu lực 07/10/2007 05/02/2007 Hiệu lực 03/03/2007

186/2006/QD- TTg Quyết định 186/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng (Click here) 14/08/2006 Hiệu lực 07/09/2006

1.4 Các quyết định của Bộ NN&PTNT

62/2005/QD- BNN Quyết định ban hành Bản Quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng (chỉ có bản tiếng Việt) 12/10/2005 Hiệu lực 06/11/2005

61/2005/QĐ- BNN Quyết định ban hành Bản quy định về tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ (chỉ có bản tiếng Việt) 12/10/2005 Hiệu lực 06/11/2005

78/2002/QĐ- BNN-KL Quyết định ban hành Quy phạm kỹ thuật theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp trong lực lượng kiểm lâm (chỉ có bản tiếng Việt) 28/08/2002 Hiệu lực 13/09/2002

516/QĐ-BNN- KHCN Quyết định ban hành quy trình thiết kế trồng rừng (chỉ có bản tiếng Việt) 18/02/2002 Hiệu lực 18/02/2002

3031/1997/QĐ- BNNPTNT Quyết định ban hành Quy chế xác định ranh giới và cắm mốc các loại rừng (chỉ có bản tiếng Việt) 20/11/1997 Hiệu lực 05/12/1997

2. Biến đổi khí hậu và REDD+

2.1 Quyết định của Thủ tướng chính phủ

799/QD-TTg lực 27/06/2012 Hiệu 27/06/2012

2139/QD-TTg Quyết định phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững TNR, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng” giai đoạn 2011-2020 (Click here) Quyết định phê duyệt chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (Click here) 05/12/2011 Hiệu lực 05/12/2011

158/2008/QD- TTg Quyết định về Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (Click here) 02/12/2008 Hiệu lực 26/12/2008

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

62

Mô tả

Số hiệu 47/2007/QD- TTg

Quyết định phê duyệt Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu giai đoạn 2007 - 2010 (Click here)

Ngày tháng 06/04/2007 Hiệu lực 20/05/2007

2.2 Quyết định của Bộ NN&PTNT

3119/QĐ-BNN- KHCN Quyết định phê duyệt Đề án giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020 (Click here) 16/12/2011 Hiệu lực 16/12/2011

543/QĐ-BNN- KHCN Quyết định ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành NNPTNT giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến năm 2050 (Click here) 23/03/2011 Hiệu lực 23/03/2011

Quyết định thành lập Văn phòng REDD+ Việt Nam (Click here) 19/01/2011 18/QĐ-TCLN- VP Hiệu lực 19/01/2012

39/QĐ-BNN- TCCB 07/01/2011 Hiệu lực 07/01/2011

3232/QĐ-BNN- HTQT 01/12/2010 Hiệu lực 01/12/2010

2614/QD-BNN- LN Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo sáng kiến "Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng (REDD+) tại Việt Nam (Click here) Quyết định phê duyệt dự án "Giảm phát thải do nạn phá rừng và suy thoái rừng thông qua việc sử dụng đất luân phiên trong các khu rừng vùng nhiệt đới (REDD-ALERT) do Cộng đồng Châu Âu tài trợ (chỉ có bản tiếng Việt) Quyết định thành lập mạng lưới và nhóm cong tác cấp quốc gia về “Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng” (REDD) (Click here) 16/09/2009 Hiệu lực 16/09/2009

2730/2008/QĐ- BNN-KHCN Quyết định ban hành khung chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2008-2020 (Click here) 05/09/2008 Hiệu lực 05/09/2008

3. Chi trả dịch vụ môi trường rừng

3.1 Nghị định Chính phủ

99/2010/ND-CP Nghị định về Chính sách chi trả môi trường rừng. (Click here)

05/2008/NĐ-CP Nghị định về Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (Click here)

24/09/2010 Hiệu lực 01/01/2011 14/01/2008 Hiệu lực 04/02/2008

3.2 Quyết định của Thủ tướng chính phủ

2284/QD-TTg

Quyết định phê duyệt Đề án "Triển khai Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng" (Click here) 13/12/2010 Hiệu lực 13/12/2010

380/QĐ-TTg Quyết định về chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng (Click here) 10/04/2008 Hiệu lực 10/04/2008

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

63

Số hiệu

Mô tả

Ngày tháng

3.3 Các quyết định của Bộ NN&PTNT

135/QD-BNN- TCLN

114/2008/QĐ- BNN Quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai Đề án "Triển khai Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng" (bản tiếng Việt) Quyết định thành lập Quỹ bảo vệ và phát triển rừng (Click here) 25/01/2011 Hiệu lực 25/01/2011 28/11/2008 Hiệu lực 13/12/2008

4. Các tài liệu pháp lý khác

4.1 Quy hoạch sử dụng đất và phát triển nông thôn 17/2011/QH13 Nghị quyết của Quốc hội về việc Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) cấp quốc gia (Click here)

22/11/2011 Hiệu lực 22/11/2011

800/QĐ-TTg

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 (Click here) 04/06/2010 Hiệu lực 04/06/2010

112/2008/QĐ- BNN 19/11/2008 Hiệu lực 18/12/2008

04/2005/QĐ- BTNMT

150/2005/QĐ- TTg

Quyết định của Bộ NNPTNT về việc ban hành Định mức kinh tế-kỹ thuật giao rừng, cho thuê rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mục đích lâm nghiệp gắn với việc lập hồ sơ quản lý rừng (chỉ có bản tiếng Việt) Quyết định của Bộ TNMT về việc ban hành Quy trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chỉ có bản tiếng Việt) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 (Click here) Nghị định chính phủ về thi hành Luật đất đai (Click here) 181/2004/NĐ- CP

13/2003/QH11 Luật đất đai số 13/2003/QH11 (Click here)

30/06/2005 Hiệu lực 04/10/2005 20/06/2005 Hiệu lực 12/07/2005 29/10/2004 Hiệu lực 16/11/2004 10/12/2003 Hiệu lực 01/07/2004

4.2 Khai thác bền vững, ngăn chặn khai thác gỗ lậu

59/2005/QĐ- BNN Quyết định của Bộ NN&PTNT về việc ban hành Quy định về kiểm tra, kiểm soát lâm sản. (chỉ có bản tiếng Việt)

04/2004/QĐ- BNN-KL Quyết định của Bộ NN&PTNT ban hành quy chế về khai thác gỗ và lâm sản khác (chỉ có bản tiếng Việt) 10/10/2005 Hiệu lực 06/11/2005 02/02/2004 Hiệu lực 17/02/2004

4.3 Lâm trường quốc doanh

142/2006/QĐ- TTg Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án sắp xếp, đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thuộc Bộ NN&PTNT (Đã có bản tiếng Anh) 19/06/2006 Hiệu lực 13/07/2006

200/2004/NĐ- CP Nghị định của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh. (chỉ có bản tiếng Việt)

28-NQ/TW Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh. (chỉ có bản tiếng Việt) 03/12/2004 Hiệu lực 04/01/2005 16/06/2003 Hiệu lực 16/06/2003

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

64

Phụ lục 6: Tóm tắt các ghi chép tại thực địa

Tóm tắt các ghi chép tại thực địa về việc sử dụng gỗ và rừng tại các thôn bản được phỏng vấn

Các kết quả phát hiện chính và địa điểm phỏng vấn

1.

2.

Thôn 3 xã Xuân Trạch - Số hộ gia đình: 127, số khẩu: 485 người - Diện tích tự nhiên 140,3ha, trong đó: + Đất nông nghiệp: 70 ha (cao su 34,3 ha, đất hoa màu 35,7ha) Các sản phẩm nông nghiệp chính: lạc, sắn, ngô và tiêu) + Đất rừng (hầu hết là rừng Keo, Lim, trám và một phần để tái sinh) Cả thôn có 17 hộ/127 hộ có đất rừng; trung bình mõi hộ chỉ có 3 ha. 1. Thông tin về củi: - Trong gia đình, phụ nữ đóng vai trò chính trong việc thu gom củi; tuy nhiên, đàn ông và con cái trong gia đình cũng tham gia thu gom củi. - Vị trí thu gom củi: người dân thường thu gom củi tại các khu vực rừng tự nhiên của Lâm trường Bố Trạch, hoặc tận dụng các cành nhánh khi khai thác keo hoặc bạch đàn. - Thường lựa chọn cây chết; đôi khi người dân cũng lựa chọn cây còn sống. - Một số vấn đề: so với quá khứ, hiện tại, người dân phải đi xa hơn để thu gom củi (từ 4 – 6 km), số lượng củi đã giảm do người dân thu gom thường xuyên hơn. - Trung bình lượng củi được sử dụng khoảng 8 ste/hộ/năm. - Việc bán củi tại địa phương vẫn khá hạn chế hơn; người dân không có nhu cầu mua củi và thị trường bên ngoài cũng có nhu cầu hạn chế về củi. - Một số loài thường được sử dụng để làm củi, ví dụ: Dẽ, Đẻn, Táu..., nhưng người dân khó tìm thấy các loài này. 2. Than củi: Người dân không đốt củi làm than củi và cũng ít dùng than củi. Họ chỉ dùng than củi trong quá trình nấu ăn khi cần thiết. 3. Gỗ: - Đàn ông độ tuổi 18 - 42 tuổi chịu trách nhiệm chặt cây, phụ nữ chỉ hỗ trợ mang vác gỗ sau khi cưa. - Vị trí chặt gỗ thuộc về lâm phần của lâm trường Bố Trạch. - 50% trường hợp người dân thành công khai thác gỗ lậu, 50% còn lại, gỗ đã cưa bị cán bộ kiểm lâm và cán bộ bảo vệ rừng của lâm trường tịch thu. - Công cụ để khai thác gỗ là cưa máy; cây được đốn hạ rất nhanh. - Các loài cây được chọn để lấy gỗ gồm: Táu, Trường, Chò, Sú, Trám, Gối - Các vấn đề nổi bật: việc khai thác bị cấm; gỗ sau khi cưa thường bị tịch thu, và cây có đường kính lớn ngày càng hiếm. - Giá bán được thương thảo giữa thương nhân và người bán gỗ, và gỗ được bán tại nhà. - Tại thôn, có nhiều người đi tìm các loài gỗ hiếm và có giá trị (Huê, Trầm, Trắc, etc.) tại khu biên giới Việt-Lào hoặc trong khu vực VQG PNKB. - Đa số người dân trong thôn đi rừng lấy gỗ (khoảng 90% số hộ gia đình đi rừng lấy gỗ) - Thời gian đi rừng khoảng 2 – 3 ngày. Tiền dôi dư mỗi lần từ 150 – 200.000 đồng/ngày công. - Gỗ sau khi cưa thường được bán hết; một số ít để gỗ lại để sử dụng. - Kỹ thuật khai thác: dùng cưa máy chặt và cưa gỗ, gỗ sau khi cưa được vác trên lưng hoặc được chở bằng xe máy. - Giá bán gỗ tại thôn khoảng 4,5 – 12 triệu đồng/m3 (tùy theo loại gỗ) 4. Cọc chống trồng tiêu: trước cọc chống thường là các thân gỗ chết, khô đã được bóc vỏ trong rừng (táu), giờ người dân dùng cọc sống (cây Ươi, Hoa sữa, Mức) 5. Tình hình sử dụng đất Người dân có nhu cầu lớn được nhận nhiều đất rừng hơn để trồng rừng và bảo vệ rừng, đặc biệt là đối với các hộ không có đất rừng. Thôn 9 Xuân Trạch Số hộ gia đình 126, số khẩu: 570 người. Số hộ nghèo: 68 hộ Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi: - Phụ nữ thu gom củi, đàn ông thỉnh thoảng cũng giúp thu gom củi. - Vị trí: gần nhà hoặc Lâm trường nơi dọn thảm thực vật để chuẩn bị trồng rừng. Người dân cũng tận dụng cành nhánh khi khai thác rừng trồng.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

65

Các kết quả phát hiện chính và địa điểm phỏng vấn

3.

- Trong vùng còn củi và dễ thu gom. - Trung bình lượng củi được sử dụng khoảng 8 ste/hộ/năm. - 100% số hộ sử dụng củi để nấu ăn. 2. Than củi: Người dân hầu hết mua than củi từ xã Lâm Trạch với giá 150.000 đồng/30kg; bên cạnh đó, họ cũng tận dụng than củi trong quá trình nấu ăn hằng ngày. 3. Gỗ: - Khoảng 30% số hộ gia đình có người đi gỗ; mỗi lần đi gỗ kéo dài khoảng 1 tuần trong rừng và bán gỗ với giá 1,5 triệu đồng. 01 tuần đi rừng và 01 tuần nghỉ ở nhà. - Công cụ để khai thác gỗ là cưa máy; gỗ sau khi cưa được trâu kéo ra ngoài. Nhóm khai thác gỗ khoảng 3 – 4 người/nhóm. - Vị trí: các vị trí thuộc các lâm phần của lâm trường. - Cây được chọn lấy gỗ gồm: Giổi, Táu, Trám, Vạng và một số loài gỗ mềm, có đường kính lớn hơn 40cm. - Giá bán trung bình 5 triệu đồng/m3. Giá bán được thương thảo giữa thương nhân và người bán gỗ. - Một số người dân đã bán cây rừng trồng (keo) theo phương thức bán cây đứng, bán ước lượng - cách này gây thất thoát về giá trị vì người dân không thể tính được trữ lượng của khu vực rừng nơi họ bán cây. - Người dân thu gom nhựa thông từ rừng trồng thuộc các chương trình 327 và 661, nhưng họ không nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật, sản lượng nhựa thông thấp. - Người dân làm thuê cho lâm trường (trồng và chăm sóc rừng) với giá 100,000–120,000 đồng/ngày - Người dân thường có xung đột với các cán bộ bảo vệ rừng của lâm trường về khai thác gỗ và sử dụng đất rừng. - Người dân có nhu cầu lớn được nhận nhiều đất rừng hơn để trồng rừng và bảo vệ rừng tự nhiên. Thôn Đông Giang xã Hưng Trạch Số hộ gia đình: 120, số khẩu: 414 người Số hộ nghèo: 28 hộ Diện tích đất nông nghiệp và đất khác 91.2ha, trong đó đất nông nghiệp là 35ha. Đất rừng 94ha (dựa theo tài liệu quy hoạch) - Số hộ gia đình có đất rừng là 40 hộ. Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi: - Trách nhiệm thu gom củi thuộc về người chồng, người vợ hoặc con cái trong gia đình. - 100% số hộ sử dụng củi để nấu ăn; một số hộ gia đình cũng sử dụng bếp gas song không thường xuyên. - Vị trí: củi được thu gom trong vườn nhà, từ việc dọn thảm thực vật chuẩn bị trồng rừng, từ rừng tự nhiên và từ tận dụng cành nhánh khi khai thác rừng trồng. - Loài cây lấy củi gồm: Dẽ, Đước, Táu, Trâm. - Nguồn gỗ hạn chế; một số hộ gia đình không có đất rừng gặp rủi ro không có củi để nấu ăn nếu việc khai thác củi từ rừng của lâm trược bị kiểm soát chặt. - Lượng củi trung bình được sử dụng 5 ste/hộ/năm. - Vấn đề: người dân phải đi xa lấy củi, nguồn củi còn ít; theo dự đoán, người dân sẽ gặp khó khăn trong thu gom củi trong vòng 3-4 tới. - Không có thị trường mua và bán củi trên địa bàn; căn bản, người dân có đủ củi để dùng. 2. Than củi: - Người dân đã ngừng đốt củi làm than cách đây 5 năm, họ mua than củi nếu cần, và họ thường mua than củi từ các thôn phía Bắc sông Son với giá 150,000 đồng/25kg 3. Gỗ: - Khoảng 30% số hộ có người đi rừng tìm các loài gỗ hiếm và có giá trị (Huê, Trầm hương, Trắc) tại khu vực biên giới Việt-Lào, tại Campuchia, Myanmar, và Malaysia. Thời gian thường là 30 – 50 ngày/chuyến đi rừng hoặc thậm chí kéo dài vài tháng. - Gỗ dùng cho gia đình được khai thác trái phép từ rừng tự nhiên tại các lâm phần của lâm trường Bồng Lai. - Các loài lấy gỗ gồm: Huỹnh, Trám, Táu, Gội, Dẽ. - Giá bán gỗ 6 - 9 triệu đồng/m3 (tùy theo loài gỗ) - Đàn ông phụ trách bán gỗ. Giá bán được thương thảo giữa thương nhân và người bán gỗ. - Kỹ thuật khai thác: Công cụ để khai thác gỗ là cưa máy; gỗ sau khi cưa được vác trên lưng (người địa phương) hoặc được trâu kéo. - Diện tích đất rừng trung bình: 1.2 – 1.6ha/hộ. - Người dân dùng cọc sống (cây Ươi, Mít, Mức) làm cọc chống trồng tiêu. - Thu nhập của các hộ giảm 50% so với các năm trước năm 2004.

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

4.

5.

66

Các kết quả phát hiện chính và địa điểm phỏng vấn - Người dân làm thuê cho lâm trường (trồng và chăm sóc rừng) với giá 100 – 120,000 đồng/ngày nhưng không thường xuyên. - Người dân không có xung đột với lâm trường do ở xa đất lâm trường. - Người dân không có đường vào khu vực trồng rừng, nên khi khai thác, mất nhiều công sức khuân vác gỗ ra khu vực xe ô tô có thể tiếp cận được. Thôn Thanh Bình 3 xã Hưng Trạch Số hộ gia đình 80, số khẩu: 380 người Số hộ nghèo: 10 hộ. Đất: DIện tích đất nhỏ, chủ yếu đất vườn; đất rừng chỉ khoảng 10 ha (hiện được dùng trồng keo và bạch đàn với chất lượng thấp) Nguồn thu nhập chính: nuôi cá lồng và khai thác lâm sản. Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi - 100% số hộ sử dụng củi để nấu ăn, với số lượng khoảng 8 ste/hộ/năm - Trách nhiệm thu gom củi thuộc về người chồng, người vợ hoặc con cái trong gia đình - Vị trí: củi được thu gom từ việc dọn thảm thực vật chuẩn bị trồng rừng, từ tận dụng cành nhánh khi khai thác rừng trồng và một phần từ khu vừng rừng tái sinh giáp xã Liên Trạch. - Thỉnh thoảng, một số người dân bán củi với giá 20,000 đồng/bó củi (30kg) - Nguồn củi còn ít; theo dự đoán, người dân sẽ gặp khó khăn trong thu gom củi trong tương lai gần. - Lượng củi trung bình được sử dụng 7 ste/hộ/năm. 2. Than củi Người dân làm than trong quá trình nấu ăn hằng ngày. 3. Gỗ - Khoảng 60 hộ có người đi rừng tìm các loài gỗ hiếm và có giá trị (Huê, Trắc and Trầm hương), tất cả đàn ông từ 18 – 42 tuổi đi rừng tìm các loài gỗ hiếm và có giá trị. - Thời gian thường là 30 – 50 ngày/chuyến đi rừng hoặc thậm chí kéo dài vài tháng - Mỗi lần người dân thu nhập được vài chục triệu đồng (tùy theo may mắn) - Gỗ làm nhà hoặc làm các vật dụng khác chủ yếu được mua tại các xưởng cưa gỗ trên địa bàn. 4. Đất rừng: - Có khoảng 20 hộ có đất rừng; trung bình mỗi họ chỉ có 0.5ha đất rừng. Thôn Thuận Hóa – xã Hóa Sơn Số hộ gia đình: 83 hộ, số khẩu: 395 người. - Nhóm dân tộc: Kinh 55 hộ, Sách 24 hộ, Thổ 4 hộ. - Đất rừng: trồng Keo, Lim xanh và Trám trắng. - Đất rừng được Dự án khu vực PNKB giao được 3 năm - Việc giao đất được thực hiện qua hình thức bốc thăm và các hộ được lựa chọn được nhận trung bình 2ha/hộ. - 50% đất rừng được giao là rừng tái sinh. - Nguồn thu nhập chính là chăn nuôi, trồng trọt, và di cư vào các tình miền Nam và Tây Nguyên để kiếm việc làm. Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi - Trách nhiệm thu gom củi thuộc về người chồng, người vợ hoặc thỉnh thoảng con cái trong gia đình. - Vị trí: từ rừng Keo, rừng tự nhiên của cộng đồng và rừng của lâm trường. - Củi còn nhiều. - Củi được nhặt từ cây chết và cành nhánh. - Lượng củi trung bình được sử dụng 5 – 7 ste/hộ/năm. - Không có thị trường mua và bán củi trên địa bàn. 2. Than củi - Người dân làm than trong quá trình nấu ăn hằng ngày. 3. Gỗ: - Hầu hét người dân đi rừng lấy gỗ, và đây là một trong những nguồn thu quan trọng nhất của đại đa số hộ gia đình địa phương. - Vị trí: Các lâm phần của Lâm trường Minh Hóa và của VQG PNKB. - Các loài cây lấy gỗ gồm: Táu, Vạng, Bộp, Sến, Trám (Gỗ nhóm 5 và 6) - Thời gian: 2 ngày/chuyến. - Giá bán gỗ từ 2,5 – 10 triệu đồng/m3. 4. Trồng rừng - Diện tích đất rừng trung bình là 2ha/hộ, trồng Lim và Trám và việc tròn rừng vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, người dân muốn trồng Keo để nhanh khai thác. 5. Các sản phẩm ngoài gỗ:

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

67

Các kết quả phát hiện chính và địa điểm phỏng vấn

6.

7.

8.

- Mây được khai thác với số lượng 50,000 cây/năm, và được bán với giá 2,500 đồng/cây. - 10% số hộ khai thác mật ong (20 – 50l/hộ/năm), giá bán 300,000 đồng/lit. Thôn Hóa Lương – xã Hóa Sơn. Diện tích đất rừng trung bình là 2ha/hộ (61 hộ), ranh giới giữa các hộ không rõ ràng, nên đôi khi có những xung đột nhỏ giữa các hộ liền kề. - Rừng tự nhiên bị khai thác cạn kiệt; diện tích rừng cộng đồng bị người ngoài khai thác một cách nghiêm trọng và người dân đã báo cáo cho các cán bộ kiểm lâm và các cán bộ bảo vệ rừng của lâm chưa nhưng chưa được hỗ trợ. Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi - Trách nhiệm thu gom củi thuộc về người chồng hoặc người vợ. - Củi được thu gom xa khu dân cư; củi còn nhiều và các cán bộ bảo vệ rừng cho phép thu gom củi. - Lượng củi sử dụng hằng năm không ấn định, trung bình khoảng 8 – 10 ste/hộ/năm. - Không có thị trường mua và bán củi trên địa bàn xã và thôn. 2. Than củi. Người dân không đốt củi làm than trong rừng, họ làm than trong quá trình nấu ăn hằng ngày. 3: Gỗ -Khoảng 50 hộ gia đình đi rừng tìm gỗ. - Thời gian: 2 – 3 ngày/chuyến. - Một số người dân được thuê khuân vác bởi các thương nhân buôn gỗ vùng hạ du với giá 100,000 – 150,000 đồng/day. - Công cụ cưa chặt cây là cưa tay 2 người kéo; gỗ sau khi cưa được vác trên lưng hoặc được trâu kéo. 4. Trồng rừng: - Diện tích đất rừng được Dự án khu vực PNKB giao cho các họ chưa được đầu tư trồng rừng - Rừng cộng đồng chưa được giao. Bản Hà Vi – xã Dân Hóa, Minh Hóa Thông tin chung: - Số hộ gia đìnhs: 39 hộ, số khẩu: 178 người - Số hộ nghèo: 33 hộ - Các nguồn kinh tế chính: lúa rẫy, chăn nuôi (đủ ăn cho 02 tháng) - Nhận hỗ trợ gạo từ chương trình 30a (6 tháng) Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi - Người dân thu gom củi tại nương rẫy và trong rừng tự nhiên, chủ yếu là củi khô. Củi còn nhiều. - Không có thị trường mua và bán củi trên địa bàn. 2. Than củi: - Người dân không đốt củi làm than trong rừng. 3. Gỗ: - Khối lượng gỗ sử dụng hàng năm của các hộ gia đình chỉ khoảng 0.3m3. Chỉ có một số ít người dân khai thác gỗ vì không có phương tiện (cưa máy, trâu). Chỉ có 3 – 4 người được thương nhân thuê khai thác gỗ. Thương nhân thuê người dân khai thác gỗ rừng trồng với giá 80,000 – 100,000 đồng/ngày. - Người ngoài thướng khai thác gỗ trong vùng nhưng người dân không biết họ từ đâu đến. - Tại bản, một số người bán Keo được 4 -5 triệu đồng. - Rừng trồng được bán theo cây đứng (ước lượng), người dân thường bán giá thấp. - Người dân muốn trồng Keo để nhanh khai thác. 4. Các sản phẩm ngoài gỗ: Người dân chỉ thu hái mây và măng tre với sản lượng thấp để sử dụng. Bản Bải Dinh – Dân Hóa Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi: - 100% số hộ sử dụng củi để nấu ăn, với số lượng khoảng 8 ste/hộ/năm. - Trong gia đình, phụ nữ đóng vai trò chính trong việc thu gom củi. Củi được thu gom tại các nương rẫy và trong rừng tự nhiên. Người dân thường thu lượm củi khô, nhưng một số hộ gia đình cũng cưa cây gỗ to làm củi. - Không có thị trường mua và bán củi trên địa bàn. 2. Than củi: Người dân không đốt củi làm than trong rừng. 3. Gỗ: Khối lượng gỗ sử dụng hàng năm của các hộ gia đình chỉ khoảng 0.4m3, không ai khai thác gỗ vì

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

9.

10

68

Các kết quả phát hiện chính và địa điểm phỏng vấn không có phương tiện (cưa máy, trâu). Tuy nhiên, theo quan sát, việc người dân đi rừng lấy gỗ khá phổ biến. - Người ngoài thướng khai thác gỗ trong vùng nhưng người dân không biết họ từ đâu đến. - Tại bản, một số người bán Keo được 4 -5 triệu đồng, và một số bán với giá 40 triệu đồng. - Rừng trồng được bán theo cây đứng (ước lượng), người dân thường bán giá thấp. - Một số người dân được các thương nhân buôn gỗ thuê khai thác gỗ rừng trồng với giá 80,000 – 100,000 đồng/day - Người dân muốn trồng Keo để nhanh khai thác. Bản Chân Troộng – xã Trường Sơn, Quảng Ninh Thông tin chung: - Số hộ gia đình: 49 hộ, số khẩu: 215 người. - Số hộ nghèo 44, số hộ cận nghèo 5 - Nhóm dân tộc: 100% Van Kieu - Kinh tế: chủ yếu là canh tác nương rẫy và khai thác gỗ. - Chăn nuôi quy mô nhỏ (10 trâu, 15 bò, 5 lợn) - Sản lượng lúa thấp (1.5 tạ/hộ/năm – chỉ đủ ăn trong 2 tháng) - Vẫn còn đất diện tích lớn song thuộc quản lý của lâm trường, người dân thiếu đất canh tác. - Đất rừng: 2 ha/household (Đất rừng trồng keo lai do dự án IFAD DPPR hỗ trợ; cần được cung cấp thông tin và hỗ trợ kỹ thuật khai thác gỗ Keo lai), chỉ 50% số hộ gia đình được nhận đất rừng. - Người dân làm thuê cho lâm trường (trồng rừng) với giá 120,000 đồng/day Tình trạng sử dụng tài nguyên: 1. Củi - 100% số hộ sử dụng củi để nấu ăn, với số lượng khoảng 8 ste/hộ/năm. - Trong gia đình, phụ nữ đóng vai trò chính trong việc thu gom củi. Củi được thu gom tại các nương rẫy và trong rừng tự nhiên. Người dân thường thu lượm củi khô, nhưng một số hộ gia đình cũng cưa cây gỗ to làm củi. - Không có thị trường mua và bán củi trên địa bàn. 2. Than củi: Người dân không đốt củi làm than trong rừng. 3. Gỗ - Nhiều người đi gỗ nhưng giá bán gỗ thấp - Một số người dân được thuê khuân vác bởi các thương nhân buôn gỗ vùng hạ du với giá 150,000 đồng/day. - Đàn ông và phụ nữ từ 16 – 45 tuổi đều đi rừng lấy gỗ. - Các loài cây lấy gỗ gồm: Gõ, Huỷnh, Táu, Dỗi, Chua... (vẫn có nhiều cây gỗ chất lượng tốt trong vùng). - Giá bán gỗ từ 4,5 – 14 triệu đồng/m3 4. Các sản phẩm ngoài gỗ: - Người dân địa phương thu thập cỏ Đót, mây và nấm nhưng không thường xuyên. Hàng năm, cỏ Đót được thu hoạch với số lượng lớn nhưng không có thị trường tiêu thụ, do đó người dân địa phương thu nhập khá hạn chế từ cỏ Đót. Bản Cây Cà – Trường Sơn Thông tin chung Số hộ gia đình: 41 hộ Kinh tế: canh tác nương rẫy là nguồn chính, chăn nuôi hạn chế do thiếu kỹ thuật, thiếu con giống và thiếu khu chăn thả. Sản lượng lúa trung bình 1 tạ/hộ gia đình/năm (đủ dùng cho 2 – 3 tháng/năm) Tình trạng sử dụng tài nguyên: Trong vùng, có một đàn khỉ với số lượng khoảng 30 – 40 cá thể. 1. Củi - Củi được thu gom trên nương (phần củi còn lại sau khi đốt nương làm rẫy) hoặc trong rừng. - Củi vẫn còn nhiều, và việc thu gom củi không tạo ra các tác động tiêu cực đến các nguồn tài nguyên rừng do người dân chỉ dùng củi khô. - Mức sử dụng than củi không ấn định, nhưng khoảng 10 ste/hộ gia đình/năm. 2. Than củi; Không sử dụng. 3. Gỗ - Người dân không khai thác gỗ - Một số người dân được thuê khuân vác bởi các thương nhân buôn gỗ vùng hạ du (do bản thân người dân không có cưa máy) với giá 150,000 đồng/day. - Các loài cây lấy gỗ gồm: Gõ, Huỷnh, Táu, Dỗi, Chua... (vẫn có nhiều cây gỗ chất lượng tốt trong vùng).

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

69

Các kết quả phát hiện chính và địa điểm phỏng vấn

4. Các sản phẩm ngoài gỗ: - Người dân địa phương thu thập cỏ Đót, mây và nấm nhưng không thường xuyên. Hàng năm, cỏ Đót được thu hoạch với số lượng lớn nhưng không có thị trường tiêu thụ, do đó người dân địa phương thu nhập khá hạn chế từ cỏ Đót.

11. Bản Khe Cát – Trường Sơn

Thông tin chung Số hộ gia đình: 77 hộ, số khẩu: 219 người. Số hộ nghèo 70% = 54 hộ Nhóm dân tộc: 100% Van Kieu Đất trồng lúa: 7 ha Đất màu: 6 ha Đất rừng: đất trồng rừng 40 ha, rừng phục hồi 66 ha, và rừng cộng đồng 69 ha. Người dân địa phương có mâu thuẫn về đất đai với Lâm trường quốc doanh, đặc biệt là đối với khu vực rừng trồng của Chương trình 661. Người dân địa phương có nhu cầu xin cắt đất từ lâm trường Trường Sơn để trồng rừng (trung bình mỗi hộ gia đình đòi hỏi 10 ha). Tình hình sử dụng tài nguyên: 1. Củi - 100% số hộ sử dụng củi để nấu ăn, với số lượng khoảng 8 ste/hộ/năm. - Trong gia đình, phụ nữ đóng vai trò chính trong việc thu thập củi. Củi được thu thập tại các khu nương rẫy và các khu vực rừng tự nhiên. Người dân chủ yếu thu thập củi khô, nhưng một số hộ gia đình cũng cưa các cây gỗ lớn để làm củi. - Không có thị trường để bán và mua củi tại địa phương. 2. Than: Không. 3. Gỗ - Nhiều người đi vào rừng lấy gỗ, nhưng gỗ bán giá thấp. - Một số người dân địa phương đi làm thuê cho một số thương nhân buôn gỗ bên ngoài từ miền xuôi (bản thân họ không có cưa để đi gỗ), giá 150.000 đồng/ ngày. - Cả đàn ông và phụ nữ từ 16 - 45 tuổi đều đi lấy gỗ. - Các loài cây gỗ được chọn gồm: Gõ, Huỷnh, Táu, Dỗi, Chua... (vẫn còn có nhiều cây gỗ tốt trong khu vực). - Giá bán gỗ từ 4,5 triệu - 14 triệu đồng/m3 4. Các sản phẩm ngoài gỗ: - Người dân địa phương thu thập cỏ Đót, mây và nấm nhưng không thường xuyên. Hàng năm, cỏ Đót được thu hoạch với số lượng lớn nhưng không có thị trường tiêu thụ, do đó người dân địa phương thu nhập khá hạn chế từ cỏ Đót.

Cập nhật 23/11/2012 10:01:17 Đất rừng được sử dụng phục vụ mục đích nông nghiệp

Tin tức Việt Nam: Ủy bản nhân dân tỉnh Quảng Bình vừa quyết định bóc tách hơn 890 ha đất rừng hiện thuộc quản lý của một cong ty lâm nghiệp để giao lại cho đòng bào người dân tộc thiểu số để canh tác nông nghiệp.

Ông Nguyễn Xuân Quang, Phó chủ tịch thường trực của UBND tỉnh, cho biết Sở TNMT sẽ làm việc với chính quyền địa phương để giao lại đất rừng thuộc Công ty TNHH Lâm công nghiệp Long Đại tại xã Trường Sơn cho người dân địa phương.

Chính quyền địa phương sẽ chịu trách nhiệm thông báo cho các đối tượng nhận đất về các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai - Ông Quang cho biết thêm. — VNS

REDD+ Safeguards in Quang Binh: Frameworks and Gaps

70

Phụ lục 7: Các bản đồ liên quan

Các bản đồ liên quan đến thảm thực vật rừng tại Quảng Bình

So sánh khu vực vùng đệm của VQG PNKB và các khu vực thuộc quản lý của các LTQD

Nguồn: Bản đồ bên trái từ các nguồn của dự án, bản đồ bên phải trình từ báo cáo của W. Schindele (2006) về Đánh giá tiềm năng các nguồn tài nguyên rừng. Các khu vực màu xanh lá cây là các khu vực ước tính thuộc quản lý của các LTQD trước khi tiến hành mở rộng VQG PNKB. Hiện tại, các khu vực tại các xã thuộc quản lý của các LTQD biến động từ 0 – 95%!

Các bản đồ phân bố rừng của JICA/JOFCA có tại www.jpn-vn-redd.org