
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 488 - THÁNG 3 - SỐ 1 - 2020
131
ẢNH HƯỞNG ĐỘC TÍNH PHẢN ỨNG DA TAY CHÂN ĐẾN KẾT QUẢ
ĐIỀU TRỊ SORAFENIB TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT
Nguyn Tiến Quang*, Nguyn Thị Thu Hường**
TÓM TẮT33
Sorafenib là thuốc đầu tiên được khuyến cáo điều
trị cho ung thư gan nguyên phát không còn chỉ định
can thiệp tại chỗ, tuy nhiên tỷ lệ xuất hiện độc tính
cao, phản ứng da tay chân là một trong những độc
tính thường gặp nhất. Nghiên cứu được thực hiện
nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của sự xuất hiện độc
tính da tay chân đến kết quả điều trị. Nghiên cứu mô
tả hồi cứu, tiến cứu trên 110 bệnh nhân UTGNP điều
trị tại bệnh viện K và bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 1-
2010 đến 31-11-2018. Kết quả cho thấy tỷ lệ gặp
phản ứng da tay chân 36,4% (Độ 1: 19,1%, độ 2:
10,9%, độ 3: 6,4%). Trong phân tích đơn biến kết
quả DCR, PFS, OS cao hơn ở nhóm bệnh nhân xuất
hiện phản ứng da tay chân (DCR 77,5% vs 48,6%,
p=0,03; PFS trung vị 6,7 tháng so với 3,1 tháng,
p=0,001; OS trung vị 14,6 tháng so với 5,8 tháng,
p=0,002). Phản ứng da tay chân là yếu tố tiên lượng
tốt đến kết quả điều trị của sorafenib tuy nhiên không
phải là yếu tố tiên lượng độc lập đến kết quả điều trị.
Từ khoá:
ung thư gan nguyên phát, sorafenib,
độc tính, phản ứng da tay chân.
SUMMARY
EFFECTS OF HAND FOOT SKIN REACTION
ON THE RESULTS OF SORAFENIB
TREATMENT IN PATIENTS WITH
HEPATOCELLULAR CARCINOMA
Sorafenib is approved for first line treatment of
hepatocellular carcinoma (HCC) without indications of
local intervention treatment. Hand foot skin reaction
was the most common toxicity. The study was done to
assess the effect of hand foot skin reaction on the
results of sorafenib treatment in patients with HCC.
Descriptive study on 110 HCC patients treatted with
sorafenib in K Hospital and Hanoi Medical University
Hospital from January 2010 to November 2018. The
rate of HFSR was 36.4% (Grade 1: 19,1%; grade 2:
10,9%; grade 3: 6,4%). In the univariate analysis,
the results were higher siggnificantly in patients with
HFSR: the deasease control rate 77.5% vs 48.6%, p =
0.03 ), median progression free survival (PFS) 6.7 vs
3.1 months, p = 0.001, median overal survival (OS)
14.6 vs 5.8 months, p = 0.002. HFSR was the good
affects factor on the results of sorafenib treatment,
but HFSR was not indepentdent prognostic factor. In
multivariate analysis, HFSR was not independent
prognostic factors for treatment results of sorafenib.
*Bệnh viện K
**Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Tiến Quang
Email: ntienquangbvk@gmail.com
Ngày nhận bài: 2.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 19.2.2020
Ngày duyệt bài: 27.2.2020
Key words:
HCC, sorafenib, toxicity, hand foot
skin reaction.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Globocan 2018, tại Việt Nam, ung thư
gan nguyên phát (UTGNP) đứng đầu về tỷ lệ
mắc, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam, nữ tương
ứng là 39,0 và 9,5/100.000 dân[1]. Bệnh có tiên
lượng xấu, tỷ lệ tử vong gần như tương đương
với tỷ lệ mắc, đặc biệt đối với giai đoạn bệnh
tiến triển nếu không điều trị thời gian sống trung
bình chỉ đạt 3 tháng[2]. Đối với giai đoạn này,
rất ít các lựa chọn điều trị, sorafenib là thuốc ức
chế đa tyrosin kinase đầu tiên chứng minh được
hiệu quả trong điều trị đối với giai đoạn bệnh
tiến triển không có chỉ định can thiệp tại chỗ.
Tuy nhiên gánh nặng từ chi phí điều trị lớn, tỷ lệ
xuất hiện độc tính cao (trên 70%), chỉ định
sorafenib cần được cân nhắc trên từng trường
hợp cụ thể [3]. Việc đánh giá các yếu tố dự báo
kết quả điều trị của sorafenib là điều cần thiết.
Các độc tính thường gặp khi điều trị sorafenib
bao gồm: mệt mỏi, phản ứng da tay chân (Hand
foot skin reaction – HFSR), tiêu chảy, tăng huyết
áp….[4]. Hiện nay đã có một số nghiên cứu trên
thế giới được tiến hành để đánh giá ảnh hưởng
của các độc tính với kết quả điều trị sorafenib,
có những nghiên cứu nhận định phản ứng da tay
chân là yếu tố tiên lượng độc lập tới kết quả điều
trị, tuy nhiên có những nghiên cứu lại cho kết
quả không tương đồng. Tại Việt Nam, thuốc
được Bộ Y tế cấp phép trong điều trị từ năm
2009, trải qua hơn 10 năm thực tế điều trị, một
số nghiên cứu đã được được tiến hành để đánh
giá hiệu quả của thuốc, một trong các độc tính
thường gặp nhất trên người bệnh tại Việt Nam là
phản ứng da tay chân, tuy nhiên chưa có nghiên
cứu nào đánh giá ảnh hưởng của độc tính này
tới kết quả điều trị. Chính vì vậy, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá ảnh
hưởng của độc tính phản ứng da tay chân với
kết quả điều trị của thuốc sorafenib trên bệnh
nhân ung thư gan nguyên phát.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng. Bệnh nhân được chẩn đoán
xác định ung thư gan nguyên phát theo tiêu
chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam, giai đoạn bệnh tiến
triển (Giai đoạn C theo Barcelona), thất bại sau
can thiệp tại chỗ, Child-Pugh A và B, thể trạng