Ảo giác màu sắc và hình dạng
(phần cuối)
Phối màu của Picasso
Bức tranh này của Picasso thể hiện sự tô màu bên trong các nét là không cần
thiết. Livingstone lưu ý rằng não của chúng ta thường gán cho các màu những hình
dạng thích hợp, mặc dù những hình dạng đó được miêu tả hết sức tối thiểu với
những nét vẽ rải mỏng.
Hiệu ứng Stroop
Đây là một ảo giác nhận thức liên quan đến các hệ xử lí cú pháp và biểu
tượng trong não của bạn. Hãy nhìn vào các từ nối tiếp nhau mà không ngừng hoặc
nhìn chậm lại, nhưng thay vì đọc ra từng từ, bạn hãy nói to xem màu của nó là gì.
Thật khó phải không nào? Bạn đang trải nghiệm hiệu ứng Stroop, đặt theo tên nhà
triết học John Ridley Stroop. Cho dù bạn cố không đọc ra từ nào, bạn vẫn không thể
giữ cho nội dung của các từ khỏi mâu thuẫn với màu sắc của nó.
Hiệu ứng McCollough
Do nhà nghiên cứu thị giác Celeste McCollough khám phá ra, ảo giác này
chứng tỏ các tương tác giữa sự cảm nhận màu sắc và cảm nhận dạng thức có thể
kéo dài đến bất ngờ. Hiệu ứng đòi hỏi phải có sự rèn luyện mới nhận ra. Hãy tự
khám phá đi bạn nhé, vì không ai có thể chỉ ra hiệu ứng cho bạn cả, trừ khi chính
bạn trông thấy nó! Nhưng nó đáng để bạn thử cố gắng một vài lần!
Ảo giác màu sắc và hình dạng
(8)
Thảm Trung Hoa
Màu đỏ nằm phía sau các đường màu xanh trông như đỏ tươi, trong khi cũng
màu đỏ ấy nằm phía sau các đường màu vàng thì trông có màu cam. Ảo giác “đồng
hóa màu sắc” này cho thấy các màu sắc có thể hòa trộn lẫn nhau trong một số tình
huống, thay vì tương phản với nhau.
Thời kì xanh lam của Picasso
Trong thời kì xanh lam của mình, Pablo Picasso vẽ mọi thứ - bao gồm cả
bóng đổ và sự nhạt màu dần của ánh sáng mặt trời – dưới sắc thái lam (ảnh trái).
Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra con người, cát dưới chân và bầu trời xám nếu
như chúng đều có màu không thực? Margaret S. Livingstone ở trường Y khoa
Harvard đã chỉ ra rằng mặc dù Picasso sử dụng màu lam, nhưng ông đã thận trọng
duy trì các tương quan độ chói – các tương phản trong ánh sáng nền trong khung
cảnh. Những tương quan độ chói đó, cái chúng ta dùng để cảm nhận bức ảnh, hiện
rõ trong phiên bản xám của bức tranh (ảnh phải).
Tháp màu của Escher
Ở đây, Livingstone cùng người đồng nghiệp Harvard của bà, David H. Hubel,
chọn một tác phẩm gỗ của Escher, Tháp Babel (trái), và tô màu xanh nhạt cho
những vùng màu trắng (giữa). Bạn vẫn nhìn thấy tòa tháp, vì các tương quan độ
chói vẫn giữ nguyên vẹn. Nhưng khi những vùng màu đen bị thay thế bởi một vùng
bóng màu lục với cùng độ chói như các vùng màu lam (trước đó là màu trắng), thì
đặc điểm ba chiều của bức ảnh bị phá vỡ (phải). Hệ thị giác của chúng ta không thể
cảm nhận thể tích, dạng thức và khoảng cách với chỉ duy nhất một thông tin màu.
Thông tin độ chói cũng là cái cần thiết.
Gương mặt nhiều màu của Matisse
Một nhóm họa sĩ châu Âu thế kỉ 20, đứng đầu bởi Henri Matisse và André
Derain, đã sử dụng các màu sặc sỡ, khác thường trong tranh vẽ của họ nên người
ta đặt tên cho những tác phẩm này là les Fauves (“thú hoang dại”). Phong cách này
trở nên nổi tiếng với tên gọi trường phái Fauves. Bức chân dung năm 1905 của
Mattisse do Derain vẽ mang đặc trưng của phong cách này. Sử dụng một phiên bản
xám của một bức tranh giống như vậy, Livingstone chứng minh cho thấy các màu
sắc kì lạ phát huy tác dụng vì chúng có độ chói thích hợp.