
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
35
BÀI BÁO KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MỨC ĐẢM BẢO TƯỚI HỢP LÝ CHO CÂY
TRỒNG CẠN CHỦ LỰC CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ CAO Ở VIỆT NAM
Trần Tuấn Thạch1, Trần Quốc Lập1, Lê Văn Chín1
Tóm tắt: Cây trồng cạn có giá trị kinh tế cao đóng góp tỷ trọng lớn về mặt giá trị trong cơ cấu của
ngành nông nghiệp Việt Nam, việc đảm bảo cấp nước đầy đủ bằng các hệ thống thủy lợi được xem là
một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến chất lượng và sản lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Trong quy hoạch và thiết kế hệ thống thủy lợi, quy mô của hệ thống được xác định dựa trên tần suất
thiết kế (tương ứng với mức đảm bảo của công trình). Hiện nay việc thiết kế và xây dựng công trình
thủy lợi sử dụng mức đảm bảo chung cho toàn hệ thống mà chưa có quy định hay tiêu chuẩn nào xác
định mức đảm bảo riêng, hợp lý cho từng loại cây trồng cạn có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, trong nghiên
cứu này, nhóm tác giả tập trung vào xây dựng cơ sở và đưa ra mức đảm bảo hợp lý cho nhóm cây trồng
này. Dựa trên cơ sở về đặc trưng khí tượng, quan hệ giữa nhu cầu nước-năng suất cây trồng, giữa chi
phí-lợi ích và các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu đề xuất mức đảm bảo cấp nước cho: Cây Vải khu
vực Trung du miền núi phía Bắc là P=90%; Cây Chè khu vực Trung du miền núi phía Bắc là P=85%;
Cây Bưởi, khu vực Bắc Trung Bộ là P=90%; Cây Cà phê, khu vực Tây Nguyên là P=90%.
Từ khóa: Mức đảm bảo, nhu cầu tưới, hệ thống thủy lợi, cây giá trị kinh tế cao.
1. GIỚI THIỆU *
Trong quy hoạch, thiết kế, và quản lý vận hành
các công trình thuỷ lợi, mức đảm bảo được hiểu là
mức an toàn đối với công trình và chế độ cung cấp
nước (Phạm Ngọc Hải et al, 2006). Theo đó, mức
đảm bảo về an toàn công trình được xác định
trong trường hợp xảy ra các hiện tượng khí tượng,
thuỷ văn đặc biệt lớn gây phá hoại công trình. Nếu
xét trên khía cạnh về cấp nước, mức đảm bảo này
được đánh giá trong điều kiện xảy ra những hiện
tượng khí tượng, thuỷ văn, gây ra sự phá hoại chế
độ làm việc của công trình, do đó, gây ra phá hoại
chế độ cung cấp sản phẩm được hiểu là chế độ cấp
nước. Trong quy hoạch, thiết kế, và xây dựng
công trình thủy lợi, mức đảm bảo cấp nước tưới
tương ứng với tần suất thiết kế. Tần suất thiết kế
của các công trình thủy lợi này được xác định
bằng phương pháp xác suất thống kê. Việc xác
định tần suất thiết kế đối với công trình cấp nước
tưới gắn liền với việc xác định tần suất lượng mưa
thiết kế (Savva & Frenken, 2002). Trên thế giới đã
có nhiều nghiên cứu về mức đảm bảo cấp nước
1 Trường Đại học Thủy lợi
dựa trên tần suất xuất hiện của lượng mưa với
quan điểm cho rằng, nếu công trình được thiết kế
đáp ứng được nhu cầu nước của những năm hạn
thì cũng sẽ đáp ứng được yêu cầu cho các năm
khác (Gourabi, 2010), thông qua các chỉ số hạn
DPI, SPI, SWSI,...vv. Dựa trên quan điểm này,
một số tác giả đã đưa ra mức đảm bảo thiết kế
công trình cấp nước tưới cho các loại cây trồng.
Tác giả (Makanjuola, 2018) cho rằng, tần suất
thiết kế cho hệ thống tưới được tính với P=80%,
tức là nếu công trình thiết kế với tần suất này thì
trong vòng 10 năm sẽ có 8 năm được cấp nước đủ
(tương đương mức đảm bảo 80%). Mức đảm bảo
này tương ứng với giá trị mà Bộ nông nghiệp Hoa
Kỳ khuyến cáo, trong sổ “tay kỹ thuật quốc gia
hướng dẫn về tưới của USDA”, lựa chọn P=80%
(USDA, 1997). Nghiên cứu của (Sharma &
Conservation, 2013) cho rằng với một số loại cây
trồng họ đậu thì tần suất phù hợp là 75%, trong khi
với các loại cây trồng ngắn ngày như mù tạt, đậu
lăng và cây lúa mạch tần suất là 85%. Mức đảm bảo
cấp nước tưới ngoài phụ thuộc vào lượng mưa hiệu
quả cung cấp nước trực tiếp cho cây trồng còn phụ
thuộc nhiều vào giá trị kinh tế của cây, nếu cây có