
Bà lớn về thăm
Lời nói đầu của người dịch
Bi hài kịch
Friedrich Dürrenmatt

Friedrich Dürrenmatt (05.01.1921-14.12.1990), nhà văn, nhà báo,
nhà viết kịch, đạo diễn và họa sĩ Thụy Sĩ, là một trong những tác giả viết
tiếng Đức quan trọng nhất nửa cuối thế kỉ 20. Vở kịch Bà lớn về thăm
(1956) đã đưa Dürrenmatt từ một tác giả nổi tiếng trong khu vực Đức ngữ
(Đức, Áo, Thụy Sĩ) lên tầm các tác giả hàng đầu thế giới. Từ đó đến nay, nó
được diễn hàng ngàn lần ở 50 quốc gia và nhiều lần dựng phim, trong đó
The Visit của đạo diễn Bernhard Wicki với Ingrid Bergmann và Anthony
Quinn (1971) được coi là thành công nhất. Toàn tập tác phẩm của ông do
Arche và Diogenes xuất bản năm 1980 gồm 29 tập.
Friedrich Dürrenmatt (1921-1990)
„Bản thân mọi sự trên đời đều song nghĩa, đa nghĩa, còn ngụ ngôn lại
đơn nghĩa. Ý thức hệ luôn đơn nghĩa. Tôi chống sự đơn nghĩa. Nghĩa đôi,
nghĩa ba, nghĩa tư, đấy mới là quyết định. Ẩn dụ không bao giờ đơn nghĩa.“

„Tôi không miêu tả những con rối, mà miêu tả con người; tôi không
trình bày một ngụ ngôn, mà trình bày một sự việc; tôi không tung ra một bài
học đạo đức, mà tung ra một thế giới.“
„Những cốt truyện chỉ hay nhưng hoàn toàn vô hại thì có hàng đống.
Vấn đề là phải tìm được những cốt truyện khó chịu. Nó phải gây hấn. Đấy là
một dạng của bổn phận làm người hiện nay.“
Friedrich Dürrenmatt
______
Chưa bao giờ tôi cắt nghĩa được vì sao những tác giả viết tiếng Đức
thân thiết nhất với mình, ngoài Bertolt Brecht, lại luôn là những „người nước
ngoài“, theo nghĩa không phải người Đức: Kafka, Canetti, Robert Walser,
Paul Celan, Thomas Bernhard và Dürrenmatt. Sự nghiệp „dịch giả cuối
tuần“ của tôi bắt đầu bằng cuốn tiểu thuyết trinh thám Thẩm phán và đao
phủ (Der Richter und sein Henker) của Dürrenmatt, năm 1988 ra ở Nhà xuất
bản Văn Học, Hà Nội, khi tiếng Việt của tôi còn vụng dại đi sau tiếng Đức

rất nhiều bước, dĩ nhiên từ cái nhìn ân hận của nhiều năm sau. Thêm vào đó,
so với sự miên man trùng điệp và đôi khi nhảy nhót cảnh vẻ của Günter
Grass, cái văn phong như đẽo vào đá của Dürrenmatt có lẽ đã quyến rũ tôi
lâu hơn. Nên tháng 10 năm 2003 khi giám đốc Viện Goethe Hà Nội Franz
Xaver Augustin mời thực hiện bản dịch vở kịch Der Besuch der alten Dame
để Nhà hát Kịch Hà Nội dựng và dự định công diễn vào tháng chín năm
2004, tôi đã nhận lời. Với một điều kiện: chuyển toàn bộ câu chuyện vốn
xảy ra ở một thị trấn Trung Âu cách đây nửa thế kỷ vào khung cảnh Việt
Nam hôm nay.
Không nhiều tác phẩm nước ngoài có thể đương nhiên nhận một đời
sống Việt như vậy. Tôi từng ao ước và tiếp tục mơ tưởng làm như thế với
Der Prozeß, „Josephine, die Sängerin oder das Volk der Mäuse“ và „In der
Strafkolonie“ của Kafka, không phụ thuộc vào thời điểm. Trường hợp Der
Besuch der alten Dame của Dürrenmatt thì khác. Trước bước ngoặt Đổi
Mới, nó hoàn toàn có thể được hoan nghênh tại Việt Nam, như tại hầu hết
các nước xã hội chủ nghĩa cũ, trong đó có Trung Quốc, với tinh thần của lần
công diễn đầu tiên năm 1967 tại nhà hát Volksbühne thuộc Cộng hoà Dân
chủ Đức cũ: một thông điệp lột trần chân tướng của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa đế quốc, một lời cảnh báo trước nguy cơ tha hoá của con người trong
nanh vuốt của các thế lực tài phiệt phương Tây, một ngụ ngôn về sự vong

thân của đám đông trước những hấp lực của chủ nghĩa phát-xít (!) và tác giả
của nó có thể được rộng lượng ghi nhận như một kịch tác gia tiến bộ và nhân
đạo phương Tây, tuy còn những hạn chế từ quan điểm giai cấp và chưa triệt
để chỉ ra những mâu thuẫn đối kháng sâu sắc trong lòng xã hội tư bản. Trong
một bối cảnh tiếp nhận văn học thế giới như thế và trước hết, trong cái xã
hội Việt Nam của một thời chưa xa lắm, khi cái nghèo tuy gặm nhấm nhưng
chưa đục ruỗng mọi giá trị và người ta nhẫn nại mắc kiếp sống khốn cùng
của mình lên những cái đinh niềm tin đóng khá vững chắc, tôi không có lí do
nào để biến Der Besuch der alten Dame thành Bà lớn về thăm. Song vào
năm 2003, tôi không có lí do nào để không làm như vậy. Vở kịch của
Dürrenmatt dường như được viết riêng cho Việt Nam hôm nay. Ở mọi nơi
trên toàn thế giới, tất cả những gì không mua được bằng tiền đều có thể mua
được bằng rất nhiều tiền, song cái bi hài nhức nhối của quá trình từ không
đến có như được miêu tả trong vở kịch này khớp với hiện trạng Việt Nam
hôm nay như thể đã được nhà viết kịch Thuỵ Sĩ tiên liệu sẵn từ năm mươi
năm trước.
Sân khấu và văn chương là hai thế giới khác hẳn nhau. Những điều rất
thú vị trong một tác phẩm văn học đọc bằng mắt, thường là tự đọc, một cách
cá nhân, không bị thời gian ràng buộc, dừng lại hay lặp lại tuỳ ý, có thể trở
thành chán ngắt đối với sân khấu, nơi đạo diễn, diễn viên và khán giả chỉ có