
http://www.ebook.edu.vn 98
CHƯƠNG IV
CÔNG TY CỔ PHẦN
T.s Phan Huy Hồng
Công ty cổ phần (CTCP) là một trong năm loại hình doanh nghiệp
(DN) trong pháp luật DN Việt Nam hiện nay, là một trong bốn loại
hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm
2005 (LDN 2005). Xét về mặt số lượng, CTCP không phổ biến
như công ty TNHH hay DNTN, nhưng đại đa số các công ty có
quy mô lớn lại là CTCP. Loại hình CTCP còn đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước
Văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh CTCP là Luật doanh
nghiệp . Tuy nhiên, đối với một số trường hợp, các cam kết của
Việt Nam đối với WTO nêu tại đoạn 502 và 503 Báo cáo của Ban
công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ được áp dụng thay vì
áp dụng các quy định của Luật doanh nghiệp về cùng một vấn đề
(xem mục 5.2.3). Ngoài ra, CTCP đại chúng và CTCP niêm yết
còn chịu sự điều chỉnh của Luật Chứng khoán ngày 29/6/2006
(70/2006/QH11) và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này.
Trong chương này, những vấn đề pháp lý của CTCP được trình
bày theo các nội dung sau đây: (1) Khái niệm, đặc điểm và lịch sử
phát triển, (2) Chức năng, vai trò và phương pháp điều chỉnh, (3)
Quy chế cổ đông, (4) Các vấn đề tài chính, (5) Tổ chức quản lý,
(6) Đại chúng hóa CTCP và (7) CTCP và thị trường chứng khoán.
Trong đó các nội dung từ mục (1) đến mục (5) là các nội dung căn
bản, các nội dung tại mục (6) và (7) là các nội dung mở rộng để
tham khảo thêm.
1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

http://www.ebook.edu.vn 99
1.1. Khái niệm
Công ty CP là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, được phép
phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn; cổ đông có thể
là tổ chức, cá nhân, số lượng tối thiểu là ba và không hạn chế số
lượng tối đa; cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn cổ phần
đã góp, có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình ngoại trừ
một số trường hợp.
1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm nêu trên và từ các quy định cụ thể về Công ty CP, ta
thấy loại công ty này có các đặc điểm như sau.
Thứ nhất, vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần.
Vốn điều lệ của CTCP được thể hiện bằng một chỉ số tiền đồng,
chẳng hạn 100 tỉ đồng. Chỉ số tiền đồng này được chia thành nhiều
phần bằng nhau, chẳng hạn 1 triệu phần, mỗi phần như vậy bằng
100.000 đồng. Một triệu phần đó được gọi là 1 triệu cổ phần;
100.000 đồng được gọi là mệnh giá cổ phần (Luật Chứng khoán
gọi là mệnh giá cổ phiếu).
Luật doanh nghiệp 2005 không quy định mức vốn điều lệ tối thiểu
(vốn pháp định) mà một CTCP phải có. Tuy nhiên, CTCP kinh
doanh một số ngành nghề nhất định mà pháp luật quy định vốn
pháp định, thì vốn điều lệ không được thấp hơn chỉ số vốn pháp
định đó.1
Luật doanh nghiệp 2005 cũng không quy định vốn điều lệ của
công ty CP phải được chia thành bao nhiêu phần, mỗi phần phải có

http://www.ebook.edu.vn 100
giá trị bao nhiêu. Nhưng khoản 1 Điều 9 Nghị định số
109/2007/NĐ-CP2 lại quy định công ty CP được cổ phần hóa từ
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau có mệnh giá là 10.000 đồng. Còn Luật
Chứng khoán quy định mệnh giá cổ phiếu chào bán lần đầu ra
công chúng là 10.000 đồng, như vậy công ty CP nào muốn chào
bán cổ phiếu ra công chúng thì trước đó phải thực hiện việc quy
mệnh giá cổ phiếu về 10.000 đồng.
Thứ hai, số lượng cổ đông ít nhất là ba và không bị hạn chế tối
đa
Luật doanh nghiệp 2005 quy định số lượng cổ đông tối thiểu của
một CTCP ít nhất phải là ba. Con số ba này là sự lựa chọn của nhà
lập pháp Việt Nam. Không có lý do bắt buộc nào để ấn định số
lượng tối thiểu là ba.3
Công ty CP không bị hạn chế số lượng cổ đông tối đa. Như vậy
Công ty CP có thể chỉ có chưa đầy một chục, hàng chục, hàng
trăm, hàng ngàn, hàng vạn hoặc thậm chí hàng triệu cổ đông.
Cổ đông Công ty CP có thể là tổ chức, cá nhân. Tổ chức phải có tư
cách chủ thể của pháp luật sở hữu mới có thể trở thành cổ đông, vì
cổ đông là đồng chủ sở hữu Công ty CP. Như vậy, công ty TNHH,
công ty HD, hợp tác xã và Công ty CP có thể trở thành cổ đông
Công ty CP. Nhưng doanh nghiệp TN lại không thể trở thành cổ
đông Công ty CP vì doanh nghiệp TN không có tư cách chủ thể
của pháp luật sở hữu, nên chủ doanh nghiệp TN sở hữu các tài sản
đầu tư vào doanh nghiệp TN và tài sản có được từ hoạt động của
doanh nghiệp TN, còn bản thân doanh nghiệp TN không sở hữu
các tài sản này.4

http://www.ebook.edu.vn 101
Thứ ba, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn cổ phần đã
góp vào công ty.
Mỗi cổ đông có thể sở hữu một hoặc nhiều cổ phần của Công ty
CP. Tuy nhiên, điều lệ công ty có thể quy định số lượng cổ phần
tối thiểu mà mỗi cổ đông phải nắm giữ.
Quy định “cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn cổ phần đã
góp vào công ty” thể hiện chế độ trách nhiệm hữu hạn của Công
ty CP.
Tuy nhiên, quy định này chỉ có ý nghĩa đối với cổ đông sáng lập, vì
chỉ có cổ đông sáng lập có thể nợ vốn cổ phần,5 còn nhà đầu tư
đăng ký mua cổ phần được quyền chào bán của công ty đều phải
thanh toán đủ ngay một lần cho công ty (họ chỉ trở thành cổ đông
khi đã thanh toán hết tiền mua cổ phần).
Thứ tư, cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ hai ngoại lệ
Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ hai ngoại lệ. Ngoại lệ thứ
nhất là cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng
(khoản 3 Điều 81). Ngoại lệ thứ hai là cổ phần phổ thông của cổ
đông sáng lập có thể được chuyển nhượng cho các cổ đông sáng
lập khác của công ty mà không phải đáp ứng thêm một điều kiện
nào; nhưng việc chuyển nhượng loại cổ phần này cho người không
phải là cổ đông sáng lập thì phải được sự chấp thuận của Đại hội
đồng cổ đông, tuy nhiên điều kiện này chỉ áp dụng trong thời hạn 3
năm, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh .
Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất tạo nên sự khác biệt giữa
loại hình Công ty CP với loại hình công ty TNHH. Bởi vì loại hình
công ty TNHH được thiết kế phù hợp cho doanh nghiệp thông

http://www.ebook.edu.vn 102
thường có quy mô vừa và nhỏ, có số lượng thành viên ít và có
quan hệ gắn bó với nhau, nên luật quy định các thành viên công ty
có quyền được ưu tiên nhận chuyển nhượng phần vốn góp của
thành viên muốn bán phần vốn góp của mình.
Khả năng tự do chuyển nhượng cổ phần giúp các nhà đầu tư dễ
dàng tham gia vào và rút ra khỏi công ty bằng cách mua hay
chuyển nhượng cổ phần, đồng thời giúp công ty thu hút vốn đầu tư
một cách thuận lợi hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ năm, CTCP được phát hành chứng khoán các loại để huy
động vốn
Đặc điểm này chỉ khác đối với loại công ty TNHH ở chỗ, trong khi
Công ty CP có thể phát hành cổ phần để huy động vốn, còn công
ty TNHH thì không. Nhưng cả hai loại công ty này đều được
quyền phát hành các loại chứng khoán khác theo quy định của
pháp luật chứng khoán.
Thứ sáu, CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận ĐKKD
Công ty CP có tư cách pháp nhân, bởi vì - như công ty TNHH -
nó đáp ứng đầy đủ các điều kiện đối với pháp nhân quy định trong
Bộ luật dân sự 2005. Ở đây giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
có giá trị như giấy khai sinh công ty với tư cách là một chủ thể
pháp lý độc lập. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng
phục vụ cho việc thành lập doanh nghiệp do các cổ đông sáng lập
hoặc người đại diện theo uỷ quyền của nhóm cổ đông sáng lập ký
kết được tự động chuyển giao cho công ty (Điều 14).
1.3 Lịch sử phát triển