
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 59
BÀI 5 THẤT NGHIỆP
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Giáo trình Kinh tế học - Tập II – NXB Kinh tế Quốc dân, 2012
Chủ biên. PGS.TS. Vũ Kim Dung và PGS.TS. Nguyễn Văn Công.
2. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Giáo trình Nguyên lý kinh tế
học vĩ mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
3. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Bài tập Nguyên lý kinh tế v
ĩ
mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Khái niệm người thất nghiệp.
Cách đo lường tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
Phân loại nguyên nhân thất nghiệp.
Chi phí mà thất nghiệp gây ra cho nền kinh tế.
Tác động của các chính sách để giúp giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp.
Mục tiêu
Để học tốt bài này, các bạn trước tiên cần nắm rõ khái niệm như người thất nghiệp là
gì, tỷ lệ thất nghiệp tính như thế nào.
Sau đó, bạn cần hiểu rõ các nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất nghiệp dựa theo cách
thức phân loại mà tài liệu giảng dạy đã nêu ra.
Và cuối cùng, dựa trên những nguyên nhân dẫn tới thất nghiệp, bạn cần rút ra được
chính phủ có thể làm gì để giúp giảm bớt những dạng thất nghiệp kể trên.

Bài 5: Thất nghiệp
60 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
Tình huống dẫn nhập
Gần 1 triệu người thất nghiệp ở Việt Nam bởi nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động
mới gia nhập thị trường và bộ phận lao động thất nghiệp cũ- Điều tra Lao động Việc làm 2012
cho thấy.
Tại sao tôi không thể tìm được việc làm? Chính phủ cần làm gì để hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp?
1. Để giải quyết các câu hỏi trên, cần làm rõ: Khái niệm thất nghiệp, các chỉ
tiêu phản ánh trạng thái thị trường lao động, các dạng thất nghiệp và
nguyên nhân của nó, các chính sách của chính phủ đối với thị trường
lao động.
2. Tất cả những vấn đề này được nghiên cứu trong bài học này.

Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 61
5.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐO LƯỜNG THẤT NGHIỆP
Ở Việt Nam, số liệu về thất nghiệp được thu thập từ Điều tra Lao động và Việc làm do
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện (trước năm 2007) và Tổng cục Thống
kê thực hiện (từ năm 2007 đến nay). Đây là cuộc điều tra chọn mẫu được thực hiện
theo phương thức phỏng vấn trực tiếp. Dựa vào trả lời cho các câu hỏi điều tra, mỗi
người trưởng thành (từ đủ 15 tuổi trở lên) trong các hộ gia đình điều tra được xếp vào
một trong hai nhóm, đó là nhóm dân số thuộc lực lượng lao động (hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế, gồm có người có việc làm và người thất nghiệp) và nhóm dân số
ngoài lực lượng lao động (hay còn gọi là nhóm dân số không hoạt động kinh tế).
Người có việc làm: Theo Tổng cục Thống kê, người có việc làm là những người
trong 7 ngày trước khi tiến hành điều tra đã làm việc ít nhất 1 giờ để tạo thu nhập
hoặc làm cho gia đình mà không đòi hỏi tiền công. Gồm có: người làm công ăn
lương, người làm kinh doanh hoặc lao động trong ruộng vườn, trang trại của họ.
Những người lao động tình nguyện, làm giúp (thanh niên tình nguyện, làm giúp
người khác…), làm từ thiện, nhân đạo… thì không được tính là người có việc làm.
Người thất nghiệp: Theo Tổng cục Thống kê, người thất nghiệp bao gồm những
người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần điều tra không làm việc nhưng sẵn sàng làm
việc và đang tìm việc làm. Tính trong tuần tham chiếu (7 ngày trước ngày phỏng
vấn/điều tra), nhóm người thất nghiệp bao gồm cả những người hiện không làm
việc nhưng đang chuẩn bị khai trương các hoạt động kinh doanh của mình hoặc
nhận một công việc mới sau thời kỳ tham chiếu; hoặc những người luôn sẵn sàng
làm việc nhưng đã không tìm kiếm việc làm do ốm đau tạm thời, bận việc riêng (lo
hiếu, hỷ…), do thời tiết xấu, đang chờ thời vụ…
Người không thuộc lực lượng lao động: Gồm những người không thuộc hai nhóm
trên. Chẳng hạn sinh viên đang theo học hệ tập trung dài hạn, người nội trợ, người
đã nghỉ hưu hoặc không có khả năng lao động…
Trên cơ sở phân nhóm như trên, một chỉ tiêu thống kê quan trọng đối với thị trường
lao động được tính toán.
Lực lượng lao động (LLLĐ): Gồm những người sẵn sàng và có khả năng lao động.
Lực lượng lao động gồm có những người đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Lực lượng lao động = Số người có việc làm + Số người thất nghiệp
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động so với
quy mô dân số trưởng thành:
Lực lượng lao động Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động = Dân số trưởng thành
100 (%)
Chỉ tiêu thống kê này cho chúng ta biết phần dân số hoạt động kinh tế trong dân số
trưởng thành.
Tỷ lệ thất nghiệp: Tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động bị thất nghiệp:
Số người thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = Số người trong lực lượng lao động
100 (%)

Bài 5: Thất nghiệp
62 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
5.2. PHÂN LOẠI THẤT NGHIỆP
Kinh tế vĩ mô thường chia thất nghiệp thành hai nhóm: thất nghiệp dài hạn và những
biến động của thất nghiệp trong ngắn hạn.
Khái niệm thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp tồn tại ngay cả
trong dài hạn.
Thất nghiệp chu kỳ biểu thị sự khác biệt giữa thất nghiệp thực tế so với mức thất
nghiệp tự nhiên do những biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn.
5.2.1. Thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế
trải qua. Thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng tỷ lệ thất nghiệp này là đáng mong
muốn, không thay đổi theo thời gian hoặc không bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế.
Nó đơn giản là mức thất nghiệp được duy trì ngay cả trong dài hạn. Các dạng thất
nghiệp được tính vào thất nghiệp tự nhiên gồm có thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ
cấu và thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển.
5.2.1.1. Thất nghiệp tạm thời
Trong hầu hết các thị trường, giá cả điều chỉnh để cân bằng cung cầu. Trong thị
trường lao động lý tưởng, tiền lương sẽ điều chỉnh để triệt tiêu tình trạng thất nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy là ngay cả khi nền kinh tế vận hành tốt thì thất nghiệp vẫn
tồn tại.
Thất nghiệp tạm thời bắt nguồn từ sự dịch chuyển bình thường của thị trường lao
động. Một nền kinh tế vận hành tốt là nền kinh tế có sự ăn khớp giữa lao động và việc
làm. Trong một nền kinh tế phức tạp, chúng ta không thể hy vọng những sự ăn khớp
như vậy xuất hiện tức thì vì trên thực tế người lao động có những sở thích và năng lực
khác nhau, trong khi việc làm cũng có những thuộc tính khác nhau. Hơn nữa, các
luồng thông tin về người muốn tìm việc và chỗ làm việc còn trống không phải lúc nào
cũng trùng pha, ăn khớp cũng như sự cơ động về mặt địa lý của người lao động cũng
không thể diễn ra ngay lập tức. Như vậy, chúng ta cần
phải dự tính và phải coi một mức thất nhiệp nhất định
là cần thiết và đáng mong muốn trong các xã hội hiện
đại. Người lao động thường không nhận ngay công
việc đầu tiên được yêu cầu và doanh nghiệp không
thuê người lao động đầu tiên nộp đơn xin việc. Trái lại,
họ cần bỏ ra thời gian và sức lực cần thiết để tạo ra sự
ăn khớp tốt nhất giữa người lao động và doanh nghiệp.
Ví dụ, sau khi tốt nghiệp đại học, bạn cần phải có khoảng thời gian cần thiết để đi tìm
việc làm. Trong thời gian đó bạn được tính là thất nghiệp. Loại thất nghiệp này được
gọi là thất nghiệp tạm thời.
Một nguồn quan trọng của thất nghiệp tạm thời là thanh niên mới gia nhập lực lượng
lao động. Nguồn khác là những người đang trong quá trình chuyển việc. Một số có thể
bỏ việc do không thoả mãn với công việc hiện tại hay điều kiện làm việc hiện tại;
trong khi một số khác có thể bị sa thải. Bất kể lý do là gì thì họ vẫn cần phải tìm một

Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 63
công việc mới, nhưng điều này cần có thời gian và cần phải chấp nhận thất nghiệp
trong một thời gian nhất định.
5.2.1.2. Thất nghiệp cơ cấu
Thất nghiệp cơ cấu phát sinh từ sự không ăn khớp giữa cung và cầu trên các thị trường
lao động cụ thể. Mặc dù số người đang tìm việc làm đúng bằng số việc làm còn trống,
nhưng người tìm việc và việc tìm người lại không khớp nhau về kỹ năng, ngành nghề
hoặc địa điểm. Ví dụ, một công nhân bậc 7 có thể làm việc hơn 25 năm trong ngành
dệt nhưng có thể trở thành người thất nghiệp ở tuổi 50 khi ngành dệt đang bị thu hẹp
do đối mặt với sự cạnh tranh từ phía nước ngoài. Người công nhân này có thể phải đào
tạo thêm một kỹ năng mới mà nền kinh tế lúc đó đang có nhu cầu. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp có thể không muốn tuyển và đào tạo những công nhân lớn tuổi nên
người công nhân này sẽ trở thành nạn nhân của tình trạng thất nghiệp cơ cấu.
Sự thay đổi đi kèm với tăng trưởng kinh tế làm thay
đổi cơ cấu của cầu lao động. Cầu lao động tăng lên ở
các khu vực đang mở rộng và có triển vọng, trong khi
lại giảm ở các khu vực đang bị thu hẹp hoặc ít triển
vọng hơn. Cầu lao động tăng đối với những người lao
động có những kỹ năng nhất định (như lập trình viên
hay kỹ sư điện tử…) và cầu lao động giảm đối với các
ngành, nghề khác (như công nhân cơ khí…). Sự thay
đổi theo hướng mở rộng khu vực dịch vụ và tái cơ cấu trong tất cả các ngành trước sự
đổi mới về công nghệ có lợi cho những công nhân có trình độ học vấn cao hơn. Để
thích ứng những thay đổi đó, cấu trúc của lực lượng lao động cần thay đổi. Một số
công nhân đang có việc làm cần được đào tạo lại và một số người mới gia nhập lực
lượng lao động cần nắm bắt được các kỹ năng lao động phù hợp với yêu cầu mới của
thị trường. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi thường tương đối khó khăn, đặc biệt đối
với công nhân có tay nghề cao mà kỹ năng của họ đã trở nên lạc hậu so với yêu cầu
mới về phát triển kinh tế. Thất nghiệp cơ cấu xuất hiện khi những điều chỉnh như vậy
diễn ra chậm chạp và thất nghiệp tăng lên ở các khu vực, các ngành nghề mà cầu về
các yếu tố sản xuất giảm nhanh hơn nguồn cung ứng.
5.2.1.3. Thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển
Một nguyên nhân khác góp phần giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy có một số
thất nghiệp ngay cả trong dài hạn là sự cứng nhắc của tiền lương thực tế. Mô hình Cổ
điển giả định rằng tiền lương thực tế điều chỉnh để cân bằng thị trường lao động, đảm
bảo trạng thái đầy đủ việc làm. Điều này phù hợp với cách tiếp cận cân bằng thị
trường, đó là giá cả sẽ điều chỉnh để đảm bảo cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy là thất nghiệp luôn tồn tại.
Các nhà kinh tế Cổ điển cho rằng các lực lượng khác nhau trên thị trường lao động,
gồm có luật pháp, thể chế và truyền thống, có thể ngăn cản tiền lương thực tế điều
chỉnh đủ mức để duy trì trạng thái đầy đủ việc làm. Nếu tiền lương thực tế không thể
giảm xuống mức đầy đủ việc làm thì thất nghiệp sẽ xuất hiện. Loại thất nghiệp này
thường được gọi là thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển. Ba nguyên nhân chủ yếu có thể