
5
CHƯƠNG I. ĐẠI CƯƠNG VỀ KÝ SINH TRÙNG VÀ BỆNH KÝ SINH TRÙNG THÚ Y
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ KÝ SINH TRÙNG
1. Khái niệm ký sinh trùng học
Ký sinh trùng học là môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa vật ký sinh và vật
chủ (ký sinh trùng và ký chủ), rút ra các quy luật cơ bản trong quá trình thích nghi của cơ thể
vật ký sinh và vật chủ, tạo cơ sở để đề xuất các biện pháp đấu tranh với các bệnh ký sinh trùng,
nhằm nâng cao sức khoẻ con người và phát triển vật nuôi, cây trồng.
Ký sinh trùng học động vật là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở người, động vật và
các bệnh do chúng gây ra ở động vật và người. Bao gồm ký sinh trùng y học và thú y học, trong
bài giảng này sẽ chủ yếu đề cập đến ký sinh trùng thú y học.
Ký sinh trùng thú y học là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở vật nuôi và các bệnh do
chúng gây ra trên vật nuôi. Trong đó, đối tượng nghiên cứu gồm 3 nhóm chính: Giun sán (khoa
học về giun sán); chân khớp (khoa học về tiết túc); nguyên sinh động vật (khoa học về đơn bào)
gây hại cho người và động vật. Phạm vi nghiên cứu của ký sinh trùng thú y gồm: vị trí của ký
sinh trùng trong hệ thống phân loại
2. Khái niệm và phân loại ký sinh trùng
2.1. Khái niệm ký sinh trùng
Ký sinh trùng là những sinh vật sống nhờ vào ký chủ đang sống, chiếm đoạt các chất dinh
dưỡng của ký chủ đó để sống và phát triển. Ví dụ: giun đũa lợn (Ascaris suum) là ký sinh trùng
tồn tại ở ruột lợn, nó chiếm đoạt chất dinh dưỡng của lợn để phát triển.
Trong hiện tượng ký sinh, ký sinh trùng nhỏ bé và yếu hơn rất nhiều so với ký chủ. Chúng
cần ký sinh ở một ký chủ sống để chiếm đoạt chất dinh dưỡng liên tục hoặc nhiều lần, đồng
thời ký chủ cũng là nơi cư trú lâu dài hoặc tạm thời của các loài ký sinh trùng này.
2.2. Phân loại ký sinh trùng
Ký sinh trùng có nhiều chỗ cư trú và nhiều cách sống khác nhau. Vì vậy, có thể phân loại
ký sinh trùng theo một số căn cứ sau:
a. Theo chỗ cư trú của ký sinh trùng
Ngoại ký sinh trùng sống trên bề mặt của cơ thể vật chủ (da, lông, mang), ví dụ như ve,
bét, bọ chét và muỗi, vv.
Nội ký sinh trùng sống trong xoang, mô và tế bào của ký chủ, ví dụ như lớp bào tử trùng
Sporozoa, sán dây, sán lá và giun tròn.
Mỗi loài ký sinh trùng đều chỉ thích hợp với những vị trí ký sinh nhất định trên hoặc bên
trong cơ thể ký chủ. Khi chúng ký sinh ở những chỗ khác thì được gọi là “ký sinh trùng lạc
chỗ”. Trong quá trình ký sinh, ký sinh trùng có thể thay đổi chỗ ở tuỳ theo từng giai đoạn phát
triển. Ví dụ: Giun xoắn (Trichinella spiralis) giai đoạn trưởng thành sống trong thành ruột non,
giai đoạn ấu trùng sống trong cơ. Ký sinh trùng sốt rét (Plasmodium vivax) phát triển trong tế
bào gan, giai đoạn sau vào trong máu.