
Bài 6: Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LAW101_Bai6_v2.0018105228
91
Bài 6 HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Nội dung
Mục tiêu
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận
các nội dung:
• Khái niệm hệ thống pháp luật.
• Căn cứ để phân chia ngành luật và chế
định pháp luật trong hệ thống
pháp luật.
• Các ngành luật cơ bản trong hệ thống
pháp luật Việt Nam:
o Luật hành chính;
o Luật hình sự;
o Luật dân sự;
o Luật quốc tế.
• Xác định được khái niệm, đặc điểm của hệ
thống pháp luật.
• Xác định được các lĩnh vực pháp luật của
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
• Phân tích được một số nội dung cơ bản của 3
lĩnh vực pháp luật quan trọng trong hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là:
Luật hành chính, Luật hình sự và Luật dân sự.
• Phân tích được một số nội dung cơ bản của
ngành luật quốc tế đó là: Công pháp quốc tế
và Tư pháp quốc tế.
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này sinh viên cần:
• Nắm được nguyên lý xác định ngành luật và
chế định pháp luật, xu hướng phân chia hệ
thống pháp luật;
• Cập nhật các văn bản pháp luật hiện hành:
Luật viên chức, Luật cán bộ công chức, luật
xử lý vi phạm hành chính, Luật tố tụng hành
chính; Bộ luật dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự;
Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự… có
liên quan đến nội dung của các ngành luật:
Hành chính, dân sự, hình sự.

Bài 6: Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LAW101_Bai6_v2.0018105228
92
TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP
Từ năm 2009, Diễn đàn Doanh nghiệp (DĐDN) đã có tọa đàm và nhiều bài viết khẳng định
những hệ lụy liên quan đến “hình sự hóa các quan hệ kinh tế”. Tuy vậy, đến thời điểm này, đây
vẫn là vấn đề thời sự.
Khẳng định với DĐDN, PGS. TS. Nguyễn Như Phát – Trọng tài Viên Trung tâm Trọng tài Quốc
tế Việt Nam (VIAC) – Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật:
“hành chính hóa”, “dân sự hóa” và “hình sự hóa” … tất cả những hiện tượng “hóa” đó đều được
coi là áp dụng sai pháp luật và đều cần phải được loại bỏ trong trật tự nhà nước pháp quyền.
Trong đời sống pháp luật, người ta nhắc đến những hiện tượng như “hành chính hóa”, “dân sự
hóa” và “hình sự hóa”. Hay đơn cử, một hành vi vi phạm pháp luật doanh nghiệp lại bị truy tố
hình sự như vụ “cà phê Xin chào” được gọi là “hình sự hóa” … Tất cả những hiện tượng “hóa”
đó đều được coi là áp dụng sai pháp luật và đều cần phải được loại bỏ trong trật tự nhà nước
pháp quyền. Theo nghĩa đó, không chỉ Chính phủ mà mọi cơ quan có chức năng thi hành, áp
dụng pháp luật đều không được “hình sự hóa” mà không chỉ các quan hệ kinh tế. Vì vậy, đây là
chủ trương hòan toàn đúng đắn của Chính phủ nhằm khắc phục yếu kém vừa qua trong thực thi
pháp luật và nhằm kiến tạo thị trường phát triển theo nhà nước pháp quyền.
Bộ luật Hình sự được sửa theo hướng không hình sự hóa quan hệ kinh tế, tạo sự an toàn cho nhà
đầu tư là quan điểm chỉ đạo. Tuy nhiên, sự thể hiện tinh thần đó trong pháp luật vẫn còn một số
vấn đề. Rà soát Bộ luật hình sự 2015, lác đác vẫn còn những quy định đi ngược với tinh thần này
gây bất an cho cộng đồng doanh nhân. Sửa đổi về kỹ thuật các điều luật đó là điều tất nhiên,
nhưng đúng là giải quyết gốc rễ câu chuyện này trong pháp luật cũng như trong thực tiễn cần
phải dựa trên nền tảng lý thuyết nhất định.
Vấn đề mấu chốt là, cần phân biệt hai loại quan hệ pháp luật công và pháp luật tư mà ở đó, khu
vực pháp luật công, nơi mà nhà nước là người đại diện cho quyền và lợi ích công cộng (bị xâm
hại) thì mới cần đến luật hình sự. Còn hành vi xâm phạm đến lợi ích tư thì nên lấy roi vọt của thị
trường (tiền bạc) thay thế cho hình phạt.
Bên cạnh đó, cần lưu ý là, trong khi định hướng “phi tội phạm hóa” cần hòan thiện các thể chế
kinh tế thị trường để không còn cơ hội và mảnh đất để tội phạm xuất hiện và như thế có thế
không cần tội phạm hóa.
Pháp luật tố tụng hình sự có nêu nguyên tắc “Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”.
Theo đó, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được giải quyết song song trong cùng một vụ án, bởi
các thẩm phán hình sự. Tuy nhiên luật áp dụng cho nội dung dân sự và hình sự lại khác nhau,
nguyên tắc và trình tự tố tụng cũng khác nhau. Vì vậy, khi giải quyết “Vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự” vẫn phải áp dụng các nguyên tắc, các quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, sẽ xuất
hiện những vấn đề khó khăn về tính chuyên nghiệp và chuyên trách của thẩm phán và vụ án vụ
án hình sự.
Trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng có thể là thiếu thông tin hay có thể là chủ quan mà đánh
giá chưa hết và đúng về nội dung của các quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự nên kết luận trong
các vụ án đó bị tranh cãi khá gay gắt. Nếu khắc phục được điều này thì sẽ không có việc sự phàn
nàn về việc giải quyết việc dân sự song song hay sau khi giải quyết vụ án hình sự gây bất bình
đẳng trong quan hệ lợi ích công tư.
http://viac.vn/hinh-su-hoa-cac-quan-he-kinh-te:-can-loai-bo-trong-nha-nuoc-phap-quyen-a589.html

Bài 6: Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LAW101_Bai6_v2.0018105228
93
1. Hệ thống pháp luật là gì?
2. Có những lĩnh vực pháp luật nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam?
3. Căn cứ nào để xác định một quan hệ xã hội cụ thể thuộc đối tượng điều chỉnh
của lĩnh vực pháp luật nào?
4. Mỗi lĩnh vực pháp luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nào?
?

Bài 6: Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LAW101_Bai6_v2.0018105228
94
ính hệ thống của pháp luật là một trong những yếu tố cơ bản của việc hòan thiện nhà nước
pháp quyền. Tính hệ thống của pháp luật được xem xét dưới nhiều góc độ: Cấu trúc pháp
luật, hình thức biểu hiện (nguồn) của pháp luật. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của
nhà nước.
6.1. Khái niệm và đặc điểm của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
6.1.1. Khái niệm
Hệ thống pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành có mối
quan hệ nội tại thống nhất. Hệ thống pháp luật được hình thành từ bộ phận nhỏ nhất là
các quy phạm pháp luật, nhiều quy phạm pháp luật có tính chất đặc thù tạo thành chế
định pháp luật, các chế định pháp luật có các đặc trưng giống nhau nhất định tạo thành
các ngành luật… Về mặt nội dung, giữa các bộ phận của hệ thống pháp luật luôn có sự
liên kết, ràng buộc, thống nhất và tác động qua lại lẫn nhau.
Hệ thống pháp luật có thể được định nghĩa như sau: Hệ thống pháp luật là cấu trúc bên
trong của pháp luật, biểu hiện ở sự liên kết, gắn bó thống nhất nội tại với nhau của các
quy phạm pháp luật, được phân định thành chế định pháp luật, ngành luật, có mối quan
hệ qua lại chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất1.
6.1.2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trước hết, hệ thống pháp luật là cấu trúc bên trong của pháp luật được hình thành một
cách khách quan, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Cũng
bởi vậy nên cấu trúc của hệ thống pháp luật được quyết định bởi chính các quan hệ xã
hội mà chúng điều chỉnh.
Thứ hai, hệ thống pháp luật được phân định thành các ngành luật, trong các ngành luật
có các chế định pháp luật và trong chế định pháp luật là các quy phạm pháp luật cụ thể
Thứ ba, hệ thống pháp luật luôn là một tập hợp có tính ổn định tương đối, nó luôn vận
động, thay đổi thông qua việc được bổ sung các quy phạm pháp luật mới, thay thế các
quy phạm pháp luật không còn phù hợp, cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật
và sự phát triển mọi mặt của một quốc gia.
Thứ tư, giữa các bộ phận của hệ thống pháp luật luôn có mối quan hệ chặt chẽ, thống
nhất với nhau.
6.2. Căn cứ để phân định ngành luật và các ngành luật trong hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
6.2.1. Căn cứ để phân định ngành luật
Ngành luật là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội có
những đặc điểm chung thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội, bằng những
phương pháp nhất định.
Mỗi ngành luật có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của riêng mình. Đây
chính là căn cứ để phân định các ngành luật trong hệ thống pháp luật.
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tr330, NXB Tư pháp 2016
T

Bài 6: Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
LAW101_Bai6_v2.0018105228
95
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội được pháp luật tác
động đến có chung tính chất, phát sinh trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của một ngành luật có thể biến động theo
thời gian và phụ thuộc vòa quan điểm của các nhà làm luật, nhà nghiên cứu cũng như
các điều kiện chính trị, xã hội…
Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức mà pháp luật tác động lên các quan hệ xã
hội. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của quan
hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật.
Cách thức tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội có thể là: cấm đoán (cấm tiến
hành những hành vi, hoạt động nhất định); bắt buộc (buộc phải thực hiện hoạt động hoặc
hành vi nhất định); cho phép (được phép thực hiện những hoạt động, hành vi nhất định
trong những phạm vi nhất định).
Mỗi ngành luật khác nhau, phụ thuộc vào các đặc điểm, tính chất của quan hệ xã hội là
đối tượng điều chỉnh sẽ có các phương pháp điều chỉnh không giống nhau. Thông
thường phương pháp điều chỉnh pháp luật có thể chia làm hai loại đặc trưng là phương
pháp mệnh lệnh và tự định đoạt. Trong đó, phương pháp mệnh lệnh điều chỉnh các quan
hệ xã hội mà trong đó có một bên nhân danh nhà nước, mang quyền lực nhà nước (quan
hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật hình sự…). Phương pháp tự định đoạt thường
được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các bên chủ thể luôn ở vị trí bình
đẳng với nhau (quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình,…).
6.2.2. Các ngành luật trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam
• Luật Hiến pháp (luật nhà nước) bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội quan trọng nhất gắn liền với việc tổ chức quyền lực nhà nước.
• Luật hành chính bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành của nhà
nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
• Luật hình sự bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm
xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, đồng thời xác định hậu quả
đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
• Luật tố tụng hình sự bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và hoạt động kiểm sát việc điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
• Luật dân sự bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang
tính chất bình đẳng phát sinh giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau.
• Luật tố tụng dân sự bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tòa án giải quyết các vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, kinh doanh thương mại của các cá nhân, pháp nhân.
• Luật hôn nhân và gia đình bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
nhân thân, quan hệ tài sản phát sinh từ việc kết hôn giữa nam và nữ.
• Luật kinh tế bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức quản lý và thực hiện hoạt động kinh doanh giữa các
doanh nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lý nhà nước.