
HồThịCẩm Hòai, PhD
htchoai@hcmuns.edu.vn

Cho tới nay chúng ta lý luận trên hệ thống có thành phần
không đổi. Do đó ta viết:
U = U (T, V) H = H (T, P) A = A (T, V)
G = G (T, P) S = S (T, V) S = S (T, P)
Nếu thành phần cấu tạo hệ thống hoặc khối lượng của hệ
thống thay đổi, các đại lượng trên còn tùy thuộc cho số lượng
mỗi cấu tử
U = U (T, V, n1, n2…) H = H (T, P, n1, n2…)
A = A (T, V, n1, n2…) G = G (T, P, n1, n2…)

Với một hỗn hợp thông thường mỗi cấu tử đóng góp
vào các thuộc tính của hỗn hợp những đại lượng
mol có giá trị khác với các trị số của mỗi cấu tử khi
đứng riêng một mình.
Do vậy người ta phải đưa các đại lượng mol riêng
phần (partial molar quantities) đặc trưng cho cấu tử
đó ở trạng thái hỗn hợp. Các đại lượng mol riêng
phần này thay đổi theo thành phần hỗn hợp.
Ví dụ: 1 mol nước tinh chất có thể tích 18 cm3
1 mol ethanol tinh chất có thể tích 58 cm3
Trộn ½ mol nước và ½ mol ethanol, thể tích dự
đóan là (18 + 58) / 2 = 38 cm3
Thực tế thể tích đo được là 37,1 cm3

Chúng ta có thể biểu diễn nồng độ thông qua các đại lượng
như sau:
Theo nồng độ mol (molar concentration per unit volume =
molarity)
c = n/(lit dung dịch)
Theo nồng độ molal (molar concentration per unit mass =
molality)
m = n/(kg dung môi)
Theo phân mol (mole fraction)

Với một hỗn hợp hay dung dịch, các thành phần riêng
biệt có thể có các giá trị mol riêng phần của chúng.
Đại lượng riêng phần dễ nhận biết nhất là thể tích mol
riêng phần.
Thể tích mol riêng phần Vicủa thành phần iđược định
nghĩa như sau:
j
nPT
i
in
V
V
,,