
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA KINH TẾ
BÀI GIẢNG
MÔN: THUẾ
(Dùng cho đào tạo tín chỉ)
Người biên soạn: ThS. Cao Anh Thảo
Lưu hành nội bộ - Năm 2015

-1-
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ
1.1.Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế
1.1.1. Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là đòi
hỏi cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước
Thuế luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, song quan niệm
về thuế ở mỗi hình thái xã hội có khác nhau. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch
sử và là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước. Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và
phát triển của Nhà nước. Cùng với việc mở rộng các chức năng của Nhà nước và sự
phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các hình thức thuế ngày càng phong phú
hơn, công tác quản lý thuế ngày càng hoàn thiện hơn và thuế đã trở thành công cụ
quan trọng, có hiệu quả của Nhà nước để tác động đến đời sống kinh tế xã hội của
đất nước.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thuế
- Khái niệm
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích
chung toàn xã hội
- Đặc điểm
+ Thuế là một khoản động viên bắt buộc gắn liền với quyền lực của Nhà nước.
Tính chất bắt buộc của thuế là một tất yếu khách quan xuất phát từ tính chất cung
cấp hàng hoá công cộng và đặc điểm sử dụng hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, thuế
là một khoản đóng góp bắt buộc không mang tính hình sự, nghĩa là hành động đóng
thuế cho Nhà nước là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân, không
phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện vi phạm pháp luật.
+ Thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp.
+ Thuế chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong
những thời kỳ nhất định.
+ Thuế được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia bằng quyền lực pháp lý
của Nhà nước đối với con người và tài sản.
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất, nội
dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó giúp ta phân biệt thuế với các hình
thức động viên khác của Ngân sách Nhà nước như phí và lệ phí trên nhiều phương
diện khác nhau.

-2-
1.1.3.Vai trò của thuế trong nền kinh tế
- Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước
Về bản chất, thu Ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và các tầng lớp dân cư trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước
huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước
nhằm thoả mãn nhu cầu chi tiêu của mình. Để huy động nguồn lực vật chất cho
mình, Nhà nước có thể sử dụng các hình thức khác nhau như: phát hành thêm tiền
để trang trải các nhu cầu chi tiêu cần thiết của Nhà nước, phát hành trái phiếu để
vay trong nước và ngoài nước, bán một phần tài sản quốc gia và thu thuế. Tuy nhiên
thuế được coi là nguồn thu chủ yếu của NSNN hệ thống thuế được trãi rộng cho nên
nguồn thu từ thuế được thường xuyên.
- Thuế là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế
Nội dung quản lý và điều tiết vĩ mô của thuế đối với nền kinh tế quốc dân
được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thuế đã góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành hợp lý theo yêu cầu
phát triển kinh tế của Nhà nước trong từng giai đoạn. Bằng cách áp dụng các chế độ
thuế phân biệt đối với từng ngành kinh tế, từng mặt hàng khác nhau, Nhà nước có
thể thúc đẩy sự phát triển các ngành quan trọng nhất, giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế.
Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế chu kỳ. Trong nền kinh tế thị trường sự
phát triển theo chu kỳ là điều khó tránh khỏi. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn
định, Nhà nước sử dụng thuế để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng
hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều
kiện thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sức sản
xuất, đưa nền kinh tế thoát khỏi những khủng hoảng nhanh chóng. Ngược lại, trong
thời kỳ phát triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế,
thu hẹp đầu tư, Nhà nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra.
Thuế có thể được sử dụng để điều tiết việc làm và thất nghiệp. Khi nền kinh tế
có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng các khoản chi tiêu của Chính phủ,
thuế cần phải được cắt giảm để tăng tổng cầu và việc làm. Trong thời kỳ nền kinh tế
lạm phát thì cùng với việc cắt giảm các khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế lại được
gia tăng để giảm tổng cầu và hạn chế gia tăng lạm phát.
Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính
sách đối ngoại, bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy sự hội nhập kinh tế
trong khu vực và thế giới. Thông qua điều chỉnh mức thuế nhập khẩu mà gây nên áp

-3-
lực tăng giá hàng nhập khẩu, làm giảm khả năng cạnh tranh so với hàng hoá sản
xuất trong nước, từ đó điều chỉnh khối lượng hàng hoá nhập khẩu để thực hiện bảo
hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của thị trường nội địa.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, mở cửa tự do hoá nền kinh tế, thuế quan dần
dần giảm bớt vai trò bảo hộ của nó. Để phát triển hoạt động ngoại thương, tạo nên
sức mạnh cạnh tranh mang tính tập thể, những thoả thuận về vấn đề thuế quan nhằm
mở rộng tự do lưu thông hàng hoá giữa các nước với nhau được hình thành. Trên cơ
sở đó liên minh thuế quan ra đời.
Thuế còn góp phần khuyến khích, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua
việc Chính phủ các nước ký kết Hiệp định tránh đánh thuế trùng và quy định những
điều kiện ưu đãi đầu tư. Như vậy, việc thi hành chính sách thuế xuất - nhập khẩu,
thực hiện liên minh thuế quan và Hiệp định tránh đánh thuế trùng đã góp phần thực
hiện chính sách đối ngoại, thúc đẩy sự hội nhập giữa các nước trong khu vực và trên
thế giới.
- Thuế góp phần đảm bảo sự bình đẳng trong chính sách động viên đóng
góp cho Nhà nước giữa các thành phần kinh tế và thực hiện công bằng xã hội
Tính công bằng, bình đẳng của thuế được biểu hiện trên những khía cạnh sau:
- Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cư.
- Công bằng xã hội không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa. Người có thu nhập
cao phải đóng thuế cao hơn người có thu nhập thấp.
- Bình đẳng, công bằng xã hội phải được biểu hiện bằng những luật pháp, chế
độ, quy định rõ ràng của Nhà nước. Phải có những biện pháp chống thất thu có hiệu
quả về đối tượng nộp thuế, về căn cứ tính thuế, về tổ chức quản lý thu thuế, về chế
độ miễn giảm, về kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với các vụ vi phạm, khắc phục
trường hợp xử lý không đúng pháp luật, quá nặng hoặc quá nhẹ.
1.2. Các yếu tố cấu thành nên một sắc thuế
1.2.1.Tên gọi
Trong hệ thống thuế có nhiều sắc thuế, mỗi một sắc thuế đều có biểu hiện
riêng trong quá trình chuyển giao thu nhập cho Nhà nước. Để thuận lợi cho công tác
quản lý, người ta phải đặt tên cho từng sắc thuế và do đó tên của mỗi sắc thuế phải
biểu hiện được những đặc trưng riêng có của nó.
Tên gọi của mỗi sắc thuế nói lên cơ sở tính thuế hoặc nội dung chủ yếu của
sắc thuế đó như thuế giá trị gia tăng có cơ sở tính thuế là giá trị gia tăng của hàng

-4-
hoá, dịch vụ chịu thuế, còn thuế thu nhập doanh nghiệp có cơ sở tính thuế là thu
nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
1.2.2. Đối tượng nộp thuế (người nộp thuế)
Luật thuế chỉ rõ tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc khai báo, hoặc không
phải thực hiện khai báo, nộp thuế theo quy định của sắc thuế đó. Tức là khoản thuế
đó do chủ thể nào phải nộp thì chủ thể đó chính là đối tượng nộp thuế. Đối tượng
nộp thuế là thể nhân hoặc pháp nhân theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Đối tượng tính thuế
Đối tượng làm căn cứ để tính thuế chính là đối tượng tính thuế. Căn cứ tính
thuế có thể là thu nhập, hàng hoá hay tài sản, do đó đối tượng tính thuế cũng có thể
là thu nhập, hàng hoá hoặc tài sản.
Ví dụ đối với thuế giá trị gia tăng thì đối tượng tính thuế là hàng hoá, dịch vụ
dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng quy định
tại Điều 4 của Luật thuế GTGT. Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất chịu
thuế sử dụng đất nông nghiệp.
1.2.4. Thuế suất, biểu thuế
Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế, thể hiện nhu cầu cần tập trung nguồn
tài chính và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời
cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế.
- Thuế suất: Thuế suất là tỷ lệ phần trăm hoặc một số tuyệt đối ấn định cho
một đơn vị đối tượng đánh thuế nhất định nộp cho Nhà nước. Thuế suất bao gồm:
Thuế suất ổn định là loại thuế suất cố định không thay đổi trong mọi trường
hợp tăng, giảm của cơ sở tính thuế. Ví dụ thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
hoạt động kinh doanh vũ trường, massage, karaoke, kinh doanh casino là 30%.
Thuế suất luỹ tiến là thuế suất tăng theo mức tăng của cơ sở tính thuế. Thuế
suất luỹ tiến bao gồm thuế suất luỹ tiến toàn phần và thuế suất luỹ tiến từng phần.
Thuế suất luỹ tiến toàn phần là thuế suất tăng trên toàn bộ phần tăng của cơ sở
tính thuế
Thuế suất luỹ tiến từng phần là thuế suất tăng trên từng phần tăng của cơ sở
tính thuế.
Ví dụ: Trích biểu thuế thu nhập cá nhân:
Bậc
thuế
Phần thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất
(%)
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10

