1
BÀI TẬP NHÓM MÔN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. Khái quát quy định của CISG về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng của bên bán
1. Chế định bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế theo Công ước
CISG
CISG (Convention on the International Sale of Goods - Hiệp định về vic
Mua bán quốc tế hàng a) một hip định quc tế được áp dụng trong việc
muan hàng hóa gia các quốc gia khác nhau. Hip định này được thiết lp để
gim thiểu sự khác biệt trongc quy định pháp lý của các ớc và tăng cường
stinởng giữa cácn trong giao dịch thương mại. Theo CISG, nếun bán
vi phạm hợp đồng mua n, n mua có quyền đòi bồi thường thiệt hại. Quy
định v bồi thường thiệt hại được đề cập trong phần III của CISG, với các điều
74 đến 77.
Điều 74 của CISG quy định rằng, nếu bên bán vi phạm hợp đồng, bên
mua quyền đòi bồi thường thiệt hại. Theo đó, bên mua thể đòi bồi
thường tất cả các thiệt hại gây ra cho họ bởi vi phạm hợp đồng của bên bán,
bao gồm cả thiệt hại trực tiếp gián tiếp. Tuy nhiên, để đòi bồi thường, bên
mua phải chứng minh được thiệt hại của họ mối liên quan giữa vi phạm
hợp đồng của bên bán thiệt hại của bên mua. Tuy nhiên, nếu bên mua
không chứng minh được số thiệt hại thực tế, mức độ bồi thường sẽ được tính
dựa trên những thiệt hại có thể được dự đoán. Nếu bên bán có thể chứng minh
được rằng bên mua đã bỏ lỡ một cơ hội lợi nhuận, mức độ bồi thường cũng sẽ
được tính toán dựa trên khoản lợi bị bỏ lỡ này.
Điều 75 của CISG quy định về mức độ bồi thường thiệt hại trong trường
hợp hợp đồng bị hủy và hợp đồng thay thế. Theo đó, nếu n n vi phạm
hợp đồng, mức độ bồi tờng sẽ bao gồm phần chênh lệnh giữa giá hợp đồng
2
giá hợp đồng thay thế những khoản bồi thường khác thể đòi được theo
điều 74.
Điều 76 của CISG quy định nhằm c định mức độ bồi thường của
bên vi phm với bên bị vi phạm trong trường hợp không hợp đồng thay
thế. Điều luật y tính toán mức độ bồi thường giữa giá ấn định trong hợp
đồng đã giá hiện hành lúc hủy hợp đồng. Tuy nhiên tại Điều 76 cũng
nêu một trường hợp đặc biệt khi bên mua đòi bồi thường thiệt hại đã
tuyên bố hủy hợp đồng sau khi tiếp nhận hủy hàng hóa thì giá hiện hành lúc
tiếp nhận hủy hàng hóa sẽ không được áp dụng và không phải giá vào lúc hủy
hợp đồng. Tại khoản 2 Điều 76 cũng quy giải thích về các loại giá hiện
hành.
Điều 77 của CISG quy định v việc bảo vệ cho n vi phạm hợp đồng.
n bị vi phạm phải hạn chế tổn thất của nh vi vi phạm hợp gây ra. Điều 76
ng đặt ra chế tài nếu bên bị vi phạm không thực hiện việc hạn chế tổn thất thì
n vi phạm thể yêu cầu giảm bớt tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn
thất có thể hạn chế được. Tuy nhiên tại Điều 76 chưa nói rõ cụ thể mức tổn thất
thể hạn chế được xác định như nào cách thức chứng minh mức tổn thất
đó.
2. V tính dự đoán trước của thiệt hại.
Theo Công ước CISG nh dự đoán trước thể suy rộng ra từ tính trực
tiếp xác thực, song việc suy rộng ra này cần phải thêm những giải xác
đáng. Mặc dù, nếu thiệt hại đó trực tiếp thực tế thì thiệt hại đó phải
mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm. Tuy nhiên, việc thiệt hại tính
nhân quả tính dự đoán trước thì cũng chưa chắc. Bởi không phải
thiệt hại có tính nhân quả nào cũng có tính dự đoán trước.
Bên cạnh đó yếu tố “khoản lợi bị bỏ lỡ” yếu tố quan trọng trong việc
xác định mức độ thiệt hại bên bán đã chịu trong q trình thực hiện hợp
3
đồng. "Khoản lợi bbỏ lỡ" được định nghĩa lợi nhuận bên bán sẽ nhận
được nếu bên mua thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Điều
này có nghĩa là, nếu bên mua vi phạm hợp đồng, bên bán sẽ không nhận được
số tiền hoặc giá trị của hàng hóa như đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Do
đó, bên bán s mất một khoản lợi nhuận họ đã kỳ vọng từ việc thực hiện
hợp đồng này. Giá của một số loại hàng hóa luôn biến động nhưng giá ký hợp
đồng mua bán chưa chắc đã cố định nên việc bên bán vi phạm hợp đồng
thể dẫn đến tình trạng bên mua phải mua mặt hàng đó với giá cao hơn vào
thời điểm hợp đồng với bên bán. Chính thế “khoản lợi bbỏ lỡ” này
yếu tố quan trọng trong việc c định mức độ thiệt hại của hành vi vi phạm
hợp đồng cũng yếu tố sở của hình thành Điều 75 Điều 76 của
CISG. Điều y giúp đảm bảo rằng bên bán sẽ được bồi thường đầy đủ mức
độ thiệt hại họ đã chịu khuyến khích bên mua thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình theo hợp đồng mua bán.
II. Phân tích án lệ
1. Tóm tắt vụ tranh chấp
- Tranh chấp giữa Cty Delchi Carrier, S.p.A. (Italia) và Cty Rotorex Corp
(Mỹ). Tranh chấp được xét xử Tòa án quận Hoa Kỳ tại New York, bản án
ngày 09/9/1994 và được xét xử phúc thẩm vào ngày 06/12/1995.
- Delchi đã đệ đơn kiện Rotorex vi phạm hợp đồng không giao
hàng hóa phù hợp, tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và đòi Rotorex bồi thường thiệt
hại trong đó có khoản lợi bị bỏ lỡ.
- Vấn đề pháp xảy ra khi Delchi tuyên bố hủy bỏ hợp đồng đòi
Rotolex bồi thường thiệt hại, trong đó khoản lợi bị bỏ lỡ. Rotolex không
bồi thường, Delchi đã kiện Rotolex ra tòa án Mỹ dựa trên quy định của Công
ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
4
- Tòa tuyên bố rằng Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa (CISG) sẽ được áp dụng đ giải quyết tranh chấp Ý Mỹ
thành viên của Công ước này. Các điều khoản của CISG được áp dụng: Các
Điều 7, 25, 35, 36, 49, 74 và 78 CISG.
- Một số Điều luật trong Công ước được áp dụng làm sở pháp cho
vụ kiên như Điều 25 về c định vi phạm hợp đồng, Điều 49 về quyền hủy
hợp đồng, Điều 74 về tiền bồi thường thiệt hại.
2. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn và cơ quan tài phán
2.1 Lập luận của nguyên đơn
+ 93% máy nén khí của Rotorex btừ chối trong kiểm tra chất lượng
công suất thấp hơn tiêu tốn nhiều năng lượng hơn. thế Delchi cho rằng
Rotorex vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Do đó đã từ chối máy nén và hủy
hợp đồng.
+ Các chi phí mà Rotorex yêu cầu bồi thường.
a) Chi phí vật liệu, hải quan, vn chuyển, lưu kho cho máy nén Rotorex
- 39.000.000 lire cho dụng cụ đặc biệt.
- 27.129.822 lire để mua vật liệu cách nhiệt đặc biệt ống để sử dụng
cho Arieles được sản xuất vi máy nén Rotorex.
- 18.877.520 lire ln quan đến hải quan và vận chuyển nội địa lô đầu tiên.
- Sau khi từ bỏ những nỗ lực không thành công để sửa chữa các máy nén
bị lỗi của Rotorex, Delchi đã phải chịu chi phí 11.096.400 lire để lưu kho các
máy nén bị từ chối có trong lô hàng đầu tiên của Rotorex.
- 2.103.683 lire để lưu kho các máy nén trong lô hàng thứ 2.
b) Chi phí phát sinh để khắc phục hậu quả
- Delchi đã chi 1.790.991 lire để vận chuyển vòng đệm Rotorex thay thế
đến nhà máy Villasanta của mình.
5
- Công nhân Delchi đã dành 790,5 giờ công để lắp vòng đệm Rotorex
đặc biệt cho máy nén Rotorex từ ngày 3 tháng 5 đến ngày 10 tháng 5 năm
1988, với chi phí 15.874.030 lire.
- Delchi đã trả tiền vận chuyển các đầu nối Rotorex bổ sung, với chi phí
thực là 183.170 lire.
- Delchi đã chi 11.687.142 lire để kiểm tra và thử nghiệm máy nén Rotorex
cao hơn mức dự kiến thông thường (thêm 582 giờ với mức 20.081 lire/giờ).
- Delchi đã trả 519.845.665 lire chi p vận chuyển nhanh máyn Sanyo
- Dây chuyền lắp ráp của Delchi ngừng hoạt động từ ngày 16 tháng 5
đến ngày 19 tháng 5 năm 1988, khiến Delchi phải trả 22.144.322 đồng lương
công nhân lắp ráp không hiệu quả (1.102,75 giờ ở mức 20.081 lire/giờ).
c) Khoản lợi bị bỏ lỡ
- Do Rotorex vi phạm hợp đồng, Delchi không thể thực hiện các đơn đặt
hàng cho 2.395 đơn vị từ các công ty liên kết với Carrier trên khắp châu Âu,
gây ra 421.187.095 lire lợi nhuận bị mất.
- 31.310.200 lire mất đi do không giao 100 sản phẩm Ariele cho công ty
White – Westinghouse- Đức.
- 266.057.772 lire mất đi do không 604 sản phẩm Ariele nhãn hiệu
Delchi để giao Ý; 280.319.840 lire mất đi do không được 653 sản
phẩm Ariele nhãn hiệu White – Westinghouse để giao ở Ý; như vậy tổng cộng
546.377.612 lire lợi nhuận mất hưởng ở Ý.
2. Lập luận của bị đơn
Rotorex đưa ra lập luận của mình đối với các khoản bồi thường của
Delchi như sau:
Thứ nhất, Rotorex cho rằng Delchi không thể thâm hụt lợi nhuận bởi
Delchi có khả năng duy trì mức tồn kho của các sản phẩm điều hoà Ariele
vượt qua số lượng tối đa thể bán ra ngoài. Vì vậy, trên thực tế không có sự