YOMEDIA
ADSENSE
Bài tập nhóm môn Thương mại quốc tế
28
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài tập nhóm môn Thương mại quốc tế trình bày quy định của CISG về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên bán và phân tích án lệ cụ thế. Mời các bạn cùng tham khảo!
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài tập nhóm môn Thương mại quốc tế
- 1 BÀI TẬP NHÓM MÔN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ I. Khái quát quy định của CISG về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên bán 1. Chế định bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế theo Công ước CISG CISG (Convention on the International Sale of Goods - Hiệp định về việc Mua bán quốc tế hàng hóa) là một hiệp định quốc tế được áp dụng trong việc mua bán hàng hóa giữa các quốc gia khác nhau. Hiệp định này được thiết lập để giảm thiểu sự khác biệt trong các quy định pháp lý của các nước và tăng cường sự tin tưởng giữa các bên trong giao dịch thương mại. Theo CISG, nếu bên bán vi phạm hợp đồng mua bán, bên mua có quyền đòi bồi thường thiệt hại. Quy định về bồi thường thiệt hại được đề cập trong phần III của CISG, với các điều 74 đến 77. Điều 74 của CISG quy định rằng, nếu bên bán vi phạm hợp đồng, bên mua có quyền đòi bồi thường thiệt hại. Theo đó, bên mua có thể đòi bồi thường tất cả các thiệt hại gây ra cho họ bởi vi phạm hợp đồng của bên bán, bao gồm cả thiệt hại trực tiếp và gián tiếp. Tuy nhiên, để đòi bồi thường, bên mua phải chứng minh được thiệt hại của họ và mối liên quan giữa vi phạm hợp đồng của bên bán và thiệt hại của bên mua. Tuy nhiên, nếu bên mua không chứng minh được số thiệt hại thực tế, mức độ bồi thường sẽ được tính dựa trên những thiệt hại có thể được dự đoán. Nếu bên bán có thể chứng minh được rằng bên mua đã bỏ lỡ một cơ hội lợi nhuận, mức độ bồi thường cũng sẽ được tính toán dựa trên khoản lợi bị bỏ lỡ này. Điều 75 của CISG quy định về mức độ bồi thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và có hợp đồng thay thế. Theo đó, nếu bên bán vi phạm hợp đồng, mức độ bồi thường sẽ bao gồm phần chênh lệnh giữa giá hợp đồng và
- 2 giá hợp đồng thay thế và những khoản bồi thường khác có thể đòi được theo điều 74. Điều 76 của CISG quy định nhằm xác định rõ mức độ bồi thường của bên vi phạm với bên bị vi phạm trong trường hợp không có hợp đồng thay thế. Điều luật này tính toán mức độ bồi thường giữa giá ấn định trong hợp đồng đã ký và giá hiện hành lúc hủy hợp đồng. Tuy nhiên tại Điều 76 cũng nêu rõ một trường hợp đặc biệt khi bên mua đòi bồi thường thiệt hại và đã tuyên bố hủy hợp đồng sau khi tiếp nhận hủy hàng hóa thì giá hiện hành lúc tiếp nhận hủy hàng hóa sẽ không được áp dụng và không phải giá vào lúc hủy hợp đồng. Tại khoản 2 Điều 76 cũng quy giải thích rõ về các loại giá hiện hành. Điều 77 của CISG quy định về việc bảo vệ cho bên vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm phải hạn chế tổn thất của hành vi vi phạm hợp gây ra. Điều 76 cũng đặt ra chế tài nếu bên bị vi phạm không thực hiện việc hạn chế tổn thất thì bên vi phạm có thể yêu cầu giảm bớt tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất có thể hạn chế được. Tuy nhiên tại Điều 76 chưa nói rõ cụ thể mức tổn thất có thể hạn chế được xác định như nào và cách thức chứng minh mức tổn thất đó. 2. Về tính dự đoán trước của thiệt hại. Theo Công ước CISG tính dự đoán trước có thể suy rộng ra từ tính trực tiếp xác thực, song việc suy rộng ra này cần phải có thêm những lý giải xác đáng. Mặc dù, nếu thiệt hại đó là trực tiếp và thực tế thì thiệt hại đó phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm. Tuy nhiên, việc thiệt hại có tính nhân quả mà có tính dự đoán trước thì cũng chưa chắc. Bởi vì không phải thiệt hại có tính nhân quả nào cũng có tính dự đoán trước. Bên cạnh đó yếu tố “khoản lợi bị bỏ lỡ” là yếu tố quan trọng trong việc xác định mức độ thiệt hại mà bên bán đã chịu trong quá trình thực hiện hợp
- 3 đồng. "Khoản lợi bị bỏ lỡ" được định nghĩa là lợi nhuận mà bên bán sẽ nhận được nếu bên mua thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Điều này có nghĩa là, nếu bên mua vi phạm hợp đồng, bên bán sẽ không nhận được số tiền hoặc giá trị của hàng hóa như đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, bên bán sẽ mất một khoản lợi nhuận mà họ đã kỳ vọng từ việc thực hiện hợp đồng này. Giá của một số loại hàng hóa luôn biến động nhưng giá ký hợp đồng mua bán chưa chắc đã cố định nên việc bên bán vi phạm hợp đồng có thể dẫn đến tình trạng bên mua phải mua mặt hàng đó với giá cao hơn vào thời điểm ký hợp đồng với bên bán. Chính vì thế “khoản lợi bị bỏ lỡ” này là yếu tố quan trọng trong việc xác định mức độ thiệt hại của hành vi vi phạm hợp đồng và cũng là yếu tố cơ sở của hình thành Điều 75 và Điều 76 của CISG. Điều này giúp đảm bảo rằng bên bán sẽ được bồi thường đầy đủ mức độ thiệt hại mà họ đã chịu và khuyến khích bên mua thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng mua bán. II. Phân tích án lệ 1. Tóm tắt vụ tranh chấp - Tranh chấp giữa Cty Delchi Carrier, S.p.A. (Italia) và Cty Rotorex Corp (Mỹ). Tranh chấp được xét xử ở Tòa án quận Hoa Kỳ tại New York, bản án ngày 09/9/1994 và được xét xử phúc thẩm vào ngày 06/12/1995. - Delchi đã đệ đơn kiện Rotorex vì vi phạm hợp đồng và không giao hàng hóa phù hợp, tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và đòi Rotorex bồi thường thiệt hại trong đó có khoản lợi bị bỏ lỡ. - Vấn đề pháp lý xảy ra khi Delchi tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và đòi Rotolex bồi thường thiệt hại, trong đó có khoản lợi bị bỏ lỡ. Rotolex không bồi thường, Delchi đã kiện Rotolex ra tòa án Mỹ dựa trên quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- 4 - Tòa tuyên bố rằng Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (CISG) sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp vì Ý và Mỹ là thành viên của Công ước này. Các điều khoản của CISG được áp dụng: Các Điều 7, 25, 35, 36, 49, 74 và 78 CISG. - Một số Điều luật trong Công ước được áp dụng làm cơ sở pháp lý cho vụ kiên như Điều 25 về xác định vi phạm hợp đồng, Điều 49 về quyền hủy hợp đồng, Điều 74 về tiền bồi thường thiệt hại. 2. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn và cơ quan tài phán 2.1 Lập luận của nguyên đơn + 93% máy nén khí của Rotorex bị từ chối trong kiểm tra chất lượng vì công suất thấp hơn và tiêu tốn nhiều năng lượng hơn. Vì thế Delchi cho rằng Rotorex vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Do đó đã từ chối máy nén và hủy hợp đồng. + Các chi phí mà Rotorex yêu cầu bồi thường. a) Chi phí vật liệu, hải quan, vận chuyển, lưu kho cho máy nén Rotorex - 39.000.000 lire cho dụng cụ đặc biệt. - 27.129.822 lire để mua vật liệu cách nhiệt đặc biệt và ống để sử dụng cho Arieles được sản xuất với máy nén Rotorex. - 18.877.520 lire liên quan đến hải quan và vận chuyển nội địa lô đầu tiên. - Sau khi từ bỏ những nỗ lực không thành công để sửa chữa các máy nén bị lỗi của Rotorex, Delchi đã phải chịu chi phí 11.096.400 lire để lưu kho các máy nén bị từ chối có trong lô hàng đầu tiên của Rotorex. - 2.103.683 lire để lưu kho các máy nén trong lô hàng thứ 2. b) Chi phí phát sinh để khắc phục hậu quả - Delchi đã chi 1.790.991 lire để vận chuyển vòng đệm Rotorex thay thế đến nhà máy Villasanta của mình.
- 5 - Công nhân Delchi đã dành 790,5 giờ công để lắp vòng đệm Rotorex đặc biệt cho máy nén Rotorex từ ngày 3 tháng 5 đến ngày 10 tháng 5 năm 1988, với chi phí 15.874.030 lire. - Delchi đã trả tiền vận chuyển các đầu nối Rotorex bổ sung, với chi phí thực là 183.170 lire. - Delchi đã chi 11.687.142 lire để kiểm tra và thử nghiệm máy nén Rotorex cao hơn mức dự kiến thông thường (thêm 582 giờ với mức 20.081 lire/giờ). - Delchi đã trả 519.845.665 lire chi phí vận chuyển nhanh máy nén Sanyo - Dây chuyền lắp ráp của Delchi ngừng hoạt động từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 19 tháng 5 năm 1988, khiến Delchi phải trả 22.144.322 đồng lương công nhân lắp ráp không hiệu quả (1.102,75 giờ ở mức 20.081 lire/giờ). c) Khoản lợi bị bỏ lỡ - Do Rotorex vi phạm hợp đồng, Delchi không thể thực hiện các đơn đặt hàng cho 2.395 đơn vị từ các công ty liên kết với Carrier trên khắp châu Âu, gây ra 421.187.095 lire lợi nhuận bị mất. - 31.310.200 lire mất đi do không giao 100 sản phẩm Ariele cho công ty White – Westinghouse- Đức. - 266.057.772 lire mất đi do không có 604 sản phẩm Ariele nhãn hiệu Delchi để giao ở Ý; và 280.319.840 lire mất đi do không có được 653 sản phẩm Ariele nhãn hiệu White – Westinghouse để giao ở Ý; như vậy tổng cộng 546.377.612 lire lợi nhuận mất hưởng ở Ý. 2. Lập luận của bị đơn Rotorex đưa ra lập luận của mình đối với các khoản bồi thường của Delchi như sau: Thứ nhất, Rotorex cho rằng Delchi không thể thâm hụt lợi nhuận bởi vì Delchi có khả năng duy trì mức tồn kho của các sản phẩm điều hoà Ariele vượt qua số lượng tối đa có thể bán ra ngoài. Vì vậy, trên thực tế không có sự
- 6 thâm hụt nào của các sản phẩm Ariele với lý do các bộ phận nén khí của Rotorex không đạt tiêu chuẩn. Tổng số lần bán hàng bị mất cho chi nhánh Thụy Sĩ của Carrier được ghi nhận là 450. Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn đặt hàng chưa được thực hiện cho chi nhánh Thụy Sĩ đều là do vi phạm của Rotorex. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1988, chi nhánh Thụy Sĩ đã hủy đơn đặt hàng 300 chiếc do một trong những khách hàng của họ hủy đơn đặt hàng. Hơn nữa, khi Delchi hủy giao hàng 50 chiếc cho công ty con ở Thụy Sĩ vào ngày 4 tháng 5 năm 1988, hãng vẫn chưa phát hiện ra rằng máy nén của Rotorex không phù hợp. Do đó, việc thua lỗ trong việc bán 50 đơn vị đó đã không được chứng minh là do vi phạm của Rotorex. Thứ hai, Rotorex cho rằng toà án đã chưa phân chia công bằng lợi nhuận cho các đơn hàng chưa hoàn thành từ cadc chi nhánh của Delchi ở châu âu và từ các đại lý bán hàng ở Ý. Thứ ba, Rotorex yêu cầu toà án xem xét lại quyết định loại trừ chi phí cố định (fixed cost) và khấu hao từ chi phí sản xuất được sử dụng để tính toán lợi nhuận bị thâm hụt. 3. Lập luận của cơ quan tài phán 3.1. Sơ thẩm Tại phiên xét xử sơ thẩm do bên mua Delchi Carrier kiện bên bán Tập đoàn Rotorex, theo Bản án ngày 09/09/1994, Tòa án sở thẩm Bắc New York (U.S District Court for Northern District of New York) đã lập luận và kết luận như sau: Thứ nhất, Tòa có thẩm quyền đối với vụ kiện này theo Mục (title) 28 của Bộ luật Hoa Kỳ (28 USC 1332) về thẩm quyền xét xử. Thứ hai, luật điều chỉnh của vụ kiến là Công ước Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) theo điểm a khoản 1 Điều 1 của Công ước, tức là do Ý (quốc gia của bên mua Delchi) và Hoa Kỳ (quốc gia của bên bán Rotorex) đều là thành viên của CISG. Thứ ba, Tòa cho rằng Rotorex đã vi phạm hợp đồng với Delchi khi không cung cấp 10.800 máy nén theo thỏa thuận.
- 7 Thứ tư, theo Điều 74 CISG, Delchi có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại bằng tiền đối với hành vi vi phạm của Rotorex với “số tiền tương đương với tổn thất, bao gồm cả tổn thất về lợi nhuận” nhưng không vượt quá số tiền mà các bên đã “hình dung một cách hợp lý” (reasonably envisioned by the parties). Trên cơ sở ý tưởng của những người soạn thảo ra CISG, Tòa cũng giải thích quy định tại Điều 74 nhằm bồi thường cho bên bị thiệt hại những lợi ích đáng ra được hưởng nếu thực hiện đúng hợp đồng (the benefit of the bargain), bao gồm lợi nhuận kỳ vọng (expectation interest) và chi phí phụ thuộc (reliance expenditure)1. Về số tiền bồi thường cụ thể, Tòa yêu cầu bị đơn Rotorex phải trả cho nguyên đơn Delchi số tiền gốc là 1.248.331,87 USD và trả thêm số tiền lãi trước thời điểm phán quyết theo lãi suất tín phiếu của Kho bạc Hoa Kỳ, cụ thể bao gồm các khoản tiền sau: - Thiệt hại cho nguyên đơn để khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gồm: 183.170 lire cho các chi phí chưa hoàn trả liên quan đến việc vận chuyển đầu nối; 1.309.851 lire cho các chi phí chưa hoàn trả liên quan đến việc vận chuyển vòng đệm Rotorex thay thế; 15.874.030 lire cho chi phí lao động liên quan đến việc thay thế vòng đệm có vấn đề ban đầu bằng sản phẩm thay thế; 11.687.142 lire để tái kiểm tra và thử nghiệm bất thường các thiết bị sau khi lắp đặt vòng đệm và đầu nối thay thế. - Việc đẩy nhanh giao hàng máy nén Sanyo để giảm thiểu thiệt hại do vi phạm của Delchi là phù hợp với Điều 77 CISG. Tuy nhiên, do các máy nén Sanyo đã được đặt hàng từ trước nên việc đặt hàng này không thể coi là nhằm mục đích để thay thế những máy Rotorex không phù hợp, do đó không áp dụng theo Điều 75 CISG. 1 Tòa trích dẫn lại tài liệu “Measuring Damages Under the United Nations Convention on the International Sale of Goods” năm 1989 của Jeffrey S. Sutton, tuy nhiên không định nghĩa cụ thể. Chi phí phụ thuộc này có thể gồm 4 loại: (1) Chi phí của bên được hứa hẹn (ở đây là Delchi) để thực hiện nghĩa vụ của họ trong hợp đồng; (2) Chi phí của bên được hứa hẹn để chuẩn bị thực hiện hợp đồng nhưng đã trở thành lãng phí; (3) Chi phí trước khi xảy ra vi phạm, không liên quan đến việc thực hiện của bên hứa hẹn, nhưng sẽ thành lãng phí nếu bên được hứa hẹn vẫn thực hiện đủ nghĩa vụ theo hợp đồng; (4) Chi phí sau khi có vi phạm hợp đồng, ví dụ như bồi hoàn cho bên thứ ba. (Tham khảo tại: https://www.designingbuildings.co.uk/wiki/Expectation_interest_and_reliance_expenditure#:~:text=A %20reliance%20expenditure%20award%20of,the%20promisor's%20promise%20to%20perform)
- 8 Việc đẩy nhanh giao hàng máy nén Sanyo là hợp lý về mặt thương mại và có thể dự đoán được nên Delchi có quyền thu hồi chi phí ròng để giao hàng sớm máy nén Sanyo là 504.305.665 lire. - Chi phí phát sinh cho việc xử lý và lưu kho máy nén không phù hợp của Rotorex 13.200.083 lire, bao gồm: 11.096.400 lire liên quan đến lô hàng đầu tiên của Rotorex và 2.103.683 lire là chi phí hợp lý để lưu trữ lô hàng thứ hai của Rotorex mặc dù Delchi không tính được chi phí chính xác. - Lợi nhuận bị mất của Delchi do mất doanh số bán hàng (Delchi có nghĩa vụ đưa ra bằng chứng đầy đủ để chứng minh): 421.187.095 lire của 2.395 chiếc Ariele cho các công ty trực thuộc trên khắp châu Âu; 31.310.200 lire của 100 chiếc Ariele cho Công ty White-Westinghouse; 266.057.772 lire của 604 chiếc Ariele nhãn hiệu Delchi ở Ý; 280.319.840 lire của 653 chiếc Ariele nhãn hiệu White-Westinghouse ở Ý. Delchi có đòi khoản doanh số cho 4.000 sản phẩm cho các “đơn hàng được chỉ định” (indicated orders) ở Ý nhưng chỉ có các lời khai mang tính suy đoán của các đại lý bán hàng của Delchi ở Ý, không có bằng chứng rằng nguyên nhân là do vi phạm của Rotorex. Tòa cũng cho rằng Delchi không có quyền đòi thêm khoản lợi nhuận khác bị mất ở Ý nữa vì không có cơ sở chắc chắn hợp lý. - Delchi cũng không có quyền đòi các chi phí sản xuất dự kiến của các đơn vị Ariele với máy nén Rotorex, bởi vì các chi phí đó được tính vào khoản thu hồi của Delchi đối với yêu cầu bồi thường lợi nhuận bị mất. - Delchi có quyền đòi cả tiền lãi theo Điều 78 CISG. - Tỷ giá chuyển đổi từ đồng lire của Ý sang USD của Hoa Kỳ được áp dụng theo quy tắc “ngày vi phạm” (breach-day rule) của New York, theo đó các thiệt hại phải chịu bằng ngoại tệ được chuyển đổi thành tỷ giá hối đoái hiện hành vào ngày vi phạm (20/4/1988); đồng thời các bên cũng không có tranh cãi về vấn đề này. Như vậy, tổng số tiền bối thường là 1.545.434.848 lire được quy đổi thành 1.248.331,87 USD tiền gốc. 3.2. Phúc thẩm
- 9 Tại phiên xét xử phúc thẩm do bên bán Rotorex kháng cáo lại Bản án ngày 09/09/1994 của Tòa sơ thẩm Bắc New York, theo Bản án ngày 06/12/1995, Tòa án Phúc thẩm khu vực 2 Hoa Kỳ (U.S Court of Appeals, 2 nd Circuit) đã lập luận và kết luận như sau: Về vi phạm của bên bán, trên cơ sở Điều 35, 36 CISG, Tòa phúc thẩm khẳng định lại máy nén của Rotorex đã vi phạm hợp đồng và bản thân Rotorex đã thừa nhận rộng rãi. Căn cứ Điều 25 CISG, Tòa sơ thẩm cho rằng vi phạm của Rotorex là “vi phạm cơ bản”. Tòa phúc thẩm nhất trí và bổ sung thêm do công suất làm mát và mức tiêu thụ năng lượng của máy nén điều hòa không khí là những yếu tố quyết định giá trị sản phẩm nên Rotorex phải chịu trách nhiệm pháp lý. Về nội dung kháng cáo của Rotorex, Tòa phúc thẩm đặt vấn đề là phải tôn trọng những lập luận của Tòa sơ thẩm trừ khi chúng rõ ràng là sai. Rotorex cho rằng Delchi không được hưởng lợi nhuận bị mất vì công ty có thể duy trì mức tồn kho của các đơn vị điều hòa không khí Ariele vượt quá số lượng tối đa doanh số bán hàng có thể bị mất. Tòa phúc thẩm đã bác bỏ, cho lập luận này của Rotorex là ngụy biện, căn cứ theo các bằng chứng về việc Delchi đã phải đóng cửa sản xuất trong vài ngày và một số mặt hàng sẵn sàng để bán cũng bị chậm trễ theo. Rotorex lập luận rằng việc Tòa sơ thẩm đã tính số tiền lãi bị mất cho các đơn đặt hàng chưa được thực hiện từ các chi nhánh của Delchi ở Châu Âu và từ các đại lý bán hàng ở Ý là sai trái. Tòa phúc thẩm cũng bác bỏ vì có thể thấy trước một cách khách quan rằng Delchi sẽ nhận đơn đặt hàng bán Ariele dựa trên số lượng máy nén mà hãng đã đặt hàng và dự kiến sẽ sẵn sàng cho mùa tới; Rotorex phản đối việc Tòa sơ thẩm loại trừ chi phí cố định (fixed cost) và khấu hao khỏi chi phí sản xuất để tính lợi nhuận bị mất (tức là chỉ dùng chi phí biến đổi (variable cost) để tính lợi nhuận bị mất). Tòa phúc thẩm cho rằng CISG không chỉ rõ các loại chi phí biến đổi, hay cả chi phí cố định và chi phí biến đổi khi tính toán lợi nhuận bị mất, tuy nhiên thông thường các tòa án không xem xét chi phí cố định. Tòa phúc thẩm cho rằng doanh nghiệp luôn
- 10 phải trả chi phí cố định, dù có vi phạm hay không; đồng thời viện dẫn lại 2 án lệ: Indu Craft kiện Ngân hàng Baroda năm 1995, theo đó chỉ khi vi phạm dẫn đến chấm dứt hoạt động kinh doanh đang diễn ra thì chi phí cố định mới được tính cùng chi phí biến đổi; án lệ Adám kiện Lindblad Travell Inc. năm 1984, theo đó chi phí cố định không được đưa vào tính lợi nhuận bị mất khi nguyên đơn là một doanh nghiệp đang hoạt động có chi phí cố định không bị ảnh hưởng bởi vi phạm. Về nội dung kháng cáo của Delchi, Delchi kháng cáo việc Tòa sơ thẩm đã từ chối một số khoản chi phí để tính bồi thường 2 với lý do rằng “đã được tính vào khoản thu hồi của Delchi đối với yêu cầu bồi thường lợi nhuận bị mất”, do đó nếu tính thì sẽ tạo thành khoản bồi thường kép cho Delchi. Tòa phúc thẩm không nhất trí với lập luận này của Tòa sơ thẩm. Theo Tòa phúc thẩm, Điều 74 CISG quy định nguyên đơn có thể đòi bồi thường thiệt hại để bồi thường toàn bộ tổn thất. Tổn thất bao gồm, nhưng không giới hạn trong lợi nhuận bị mất; đồng thời cũng chỉ tuân theo giới hạn quen thuộc đối với tổn thất mà bên vi phạm phải thấy trước, hoặc lẽ ra phải thấy trước, như một hậu quả có thể xảy ra. Tòa phúc thẩm cho rằng phần lợi nhuận bị mất cũng không bù đắp được các chi phí đang xét đến ở đây cho Delchi vì: lợi nhuận bị mất của Delchi tính bằng cách lấy doanh thu giả định (nếu bán được hàng) trừ đi chi phí biến đổi giả định (cũng không xảy ra); như vậy là không bù đắp được những loại chi phí thực tế đã phát sinh dẫn đến không bán được hàng, và không tạo thành “bồi thường kép”. - Về chi phí sửa bảng điện để sử dụng với các máy nén Sanyo thay thế (Delchi không chứng minh được việc sửa đổi này không phải là một phần của chi phí sản xuất thông thường của các đơn vị có máy nén Sanyo) và việc mất 4.000 đơn hàng ở Ý (do các đại lý khai sẽ đặt mua thêm Ariele nếu có sẵn, 2 (1) vận chuyển, hải quan và các chi phí phát sinh liên quan đến lô hàng thứ nhất và thứ hai - bị từ chối và trả lại - của máy nén khí Rotorex; (2) vật liệu cách nhiệt cũ và ống được mua chỉ để sử dụng với máy nén Rotorex; (3) dụng cụ lỗi thời được mua riêng để sản xuất các thiết bị có máy nén Rotorex; (4) chi phí lao động trong khoảng thời gian dây chuyền sản xuất Delchi không hoạt động do thiếu máy nén để lắp đặt trong dàn máy điều hòa không khí Ariele.
- 11 như vậy là quá suy đoán), Tòa phúc thẩm nhất trí với Tòa sơ thẩm từ chối các khoản bồi thường này. Nói chung, Tòa phúc thẩm đã xác nhận việc bồi thường thiệt hại và bổ sung thêm một số khoản chi phí mà Delchi được hưởng. III. Đánh giá và bình luận Thứ nhất, xem xét đến bản chất của vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng cần dựa trên các yếu tố: có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế, sự vi phạm này phải dẫn đến hậu quả là quyền lợi của một hoặc các bên trong hợp đồng không thể đạt được, và bên vi phạm hợp đồng có thể nhìn thấy được hậu quả dẫn đến nếu có hành vi vi phạm. Điều 74 CISG nhấn mạnh trường hợp bên vi phạm lẽ ra đã phải dự đoán trước được hậu quả xảy ra, nhằm tránh trường hợp bên vi phạm viện dẫn lý do không lường trước được thiệt hại một cách chủ quan. Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có quy định tương tự và cũng chưa có điều khoản về dự tính trước thiệt hại xảy ra, do đó khi áp dụng CISG các doanh nghiệp tại Việt Nam cần chú ý vấn đề này khi giao kết hợp đồng nhằm bảo vệ tối ưu nhất quyền lợi của mình. Thứ hai, khi xem xét tính toán thiệt hại được bồi thường là lợi nhuận bị mất khi phải dừng sản xuất kinh doanh, Tòa án có thể chấp nhận các tính toán dựa trên doanh thu, các chi phí cố định và các chi phí phát sinh hàng ngày, miễn là có bằng chứng thuyết phục. Ngoài ra, tòa án cũng có thể chấp nhận cả những thiệt hại hệ quả phát sinh từ vi phạm, miễn là nó không bị tính trùng trong chi phí đã tính toán của lợi nhuận bị bỏ lỡ và thiệt hại đó có thể lường trước được. Vì vậy, trong quá trình hợp tác, để đề phòng những rủi ro, doanh nghiệp Việt Nam cũng cần dự trù tập hợp các bằng chứng, chứng cứ cần thiết để đảm bảo tính thuyết phục của các thiệt hại và lợi nhuận bị bỏ lỡ, cũng như các thiệt hại hệ quả, liên quan khác về chi phí phát sinh từ vi phạm của bên kia.
- 12 Thứ ba, đối với trường hợp xem xét yêu cầu bồi thường các khoản lãi mà một bên đáng lẽ được hưởng nếu bên kia không vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, Tòa án sẽ xem xét các chứng cứ, bằng chứng để xác định đó có phải là tiền lãi thực tế phát sinh hay không để chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường. Trong tình huống này, bên có quyền lợi bị vi phạm phải đưa ra được các bằng chứng thuyết phục nhằm chứng minh cho yêu cầu đòi bồi thường của mình là hợp lý. Điều 302 Luật Thương Mại 2005 cũng đưa ra khái niệm bồi thường thiệt hại, theo đó: bên gây thiệt hại sẽ phải bồi thường và giá trị bồi thường bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Điều 306 của luật này cũng đưa ra quy định về lãi suất trên số tiền chậm trả, khác với quy định tại CISG chỉ đưa ra mức chung, quy định tại Luật thương mại 2005 có tính cụ thể và xác thực hơn khi xét theo “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán ứng với thời gian chậm trả”. Điều này được chi tiết hơn tại Điều 11, Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP: “khi xác định lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,...) có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán (thời điểm xét xử sơ thẩm) để quyết định mức lãi suất chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Như vậy, việc áp dụng mức lãi suất theo Luật thương mại 2005 là hợp lý và hoàn toàn phù hợp với quy định tại CISG.
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn