Đây là bài viết đạt 9,5 môn văn ca bn Nguyn Hng Ngc Lam trong kì thi Đại hc cao đẳng 2007
Nhà thơ Huy Cn tên tht là Cù Huy Cn, vi ging thơ rt riêng đã khng định tên tui ca mình trong phong trào
thơ mi 1930-1945. Ông vn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mt năm 2005. Trước Cách mng
tháng tám, thơ ông mang ni su v kiếp người và ca ngi cnh đẹp ca thiên nhiên, to vt vi các tác phm tiêu
biu như: "La thiêng", "Vũ tr ca", Kinh cu t". Nhưng sau Cách mng tháng tám, hn thơ ca ông đã tr nên lc
quan, được khơi ngun t cuc sng chiến đấu và xây dng đất nước ca nhân dân lao động: "Tri mi ngày li
sáng", "Đất n hoa", "Bài thơ cuc đời"... V đẹp thiên nhiên ni ưu su nhân thế, mt nét thơ tiêu biu ca Huy
Cn, được th hin khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là mt bài thơ hay, tiêu biu và ni tiếng nht ca
Huy Cn trước Cách mng tháng tám. Bài thơ được trích t tp "La thiêng", được sáng tác khi Huy Cn đứng b
Nam bến Chèm sông Hng, nhìn cnh mênh mông sóng nước, lòng vi vi bun, cám cnh cho kiếp người nh bé,
ni trôi gia dòng đời vô định. Mang ni u bun hoài như thế nên bài thơ va có nét đẹp c đin li va đượm nét
hin đại, đem đến s thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng tri rng nh sng dài
Sóng gi tràng giang bun đip đip
....
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.
Ngay t thi đề, nhà thơ đã khéo gi lên v đẹp c đin li hin đại cho bài thơ. "Tràng giang" là mt cách nói chch
đầy sáng to ca Huy Cn. Hai âm "anh" đi lin nhau đã gi lên trong người đọc cm giác v con sông, không ch
dài vô cùng mà còn rng mênh mông, bát ngát. Hai ch "tràng giang" mang sc thái c đin trang nhã, gi liên
tưởng v dòng Trường giang trong thơ Đường thi, mt dòng sông ca muôn thu vĩnh hng, dòng sông ca tâm
tưởng.
T thơ "Tràng giang" mang nét c đin như thơ xưa: Nhà thơ thường n đằng sau cái mênh mông sóng nước,
không như các nhà thơ mi thường th hin cái tôi ca mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để
mong hoà nhp, giao cm, Huy cn li tìm v thiên nhiên để th hin ni ưu tư, bun bã v kiếp người cô đơn, nh
bé trước vũ tr bao la. Đó cũng là v đẹp đầy sc quyến rũ ca tác phm, n cha mt tinh thn hin đại.
Câu đề t gin d, ngn gn vi ch by ch nhưng đã thâu tóm được cm xúc ch đạo ca c bài: "Bâng khuâng
tri rng nh sng dài". Trước cnh "tri rng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông ca thiên nhiên, lòng con
người dy lên tình cm "bâng khuâng" và nh. T láy "bâng khuâng" được s dng rt đắc địa, nó nói lên được tâm
trng ca ch th tr tình, bun bã, u su, cô đơn, lc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tp y c v
sóng đều đặn khp các kh thơ, c cun sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay t kh thơ đầu, người đọc đã bt gp nhng con sóng lòng đầy ưu tư, su não như thế:
Sóng gn tràng giang bun đip đip,
Con thuyn xuôi mái nước song song.
Thuyn v nước li su trăm ng
Ci mt cành khô lc my dòng.
V đẹp c đin ca bài thơ được th hin khá rõ ngay t bn câu đầu tiên này. Hai t láy nguyên "đip đip", "song
song" cui hai câu thơ mang đậm sc thái c kính ca Đường thi. Và không ch mang nét đẹp y, nó còn đầy sc
gi hình, gi liên tưởng v nhng con sóng c loang ra, lan xa, gi lên nhau, dòng nước thì c cun đi xa tn nơi
nào, miên man miên man. Trên dòng sông gi sóng "đip đip", nước "song song" y là mt "con thuyn xuôi mái",
lng l trôi đi. Trong cnh có s chuyn động là thế, nhưng sao ch thy v lng t, mênh mông ca thiên nhiên,
mt dòng "tràng giang" dài và rng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tn, ni bun ca con người cũng đầy ăm p trong lòng
Thuyn v nước li su trăm ng
Ci mt cành khô lc my dòng.
Thuyn và nước vn đi lin nhau, thuyn trôi đi nh nước xô, nước v vào thuyn. Thế mà Huy Cn li thy thuyn
và nước đang chia lìa, xa cách "thuyn v nước li", nghe sao đầy xót xa. Chính l vì thế mà gi nên trong lòng
người ni "su trăm ng". T ch s nhiu "trăm" hô ng cùng t ch s "my" đã thi vào câu thơ ni bun vô hn.
Tâm hn ca ch th tr tình được bc l đầy đủ nht qua câu thơ đặc sc: "Ci mt càng khô lc my dòng". Huy
Cn đã khéo dùng phép đảo ng kết hp vi các t ng chn lc, th hin ni cô đơn, lc lõng trước vũ tr bao la.
"Mt" gi lên s ít i, nh bé, "cành khô" gi s khô héo, cn kit nha sng, "lc" mang ni su vô định, trôi ni,
bp bnh trên "my dòng" nước thiên nhiên rng ln mênh mông. Cành ci khô đó trôi dc đi nơi nào, hình nh
gin d, không tô v mà sao đầy rn ngp, khiến lòng người đọc cm thy trng vng, đơn côi.
Nét đẹp c đin "t cnh ng tình" tht khéo léo, tài hoa ca tác gi, đã gi m v mt ni bun, u su như con
sóng s còn v mãi các kh thơ còn li để ngưi đọc có th cm thông, thu hiu v mt nét tâm trng thường
gp các nhà thơ mi. Nhưng bên cnh đó ta cũng nhìn ra mt v đẹp hin đại rt thi v ca kh thơ. Đó là cách
nói "Ci mt cành khô" tht đặc bit, không ch thâu tóm cm xúc ca toàn kh, mà còn hé m tâm trng ca nhân
vt tr tình, mt ni nim đơn côi, lc lõng.
Ni lòng y được gi m nhiu hơn qua hình nh qunh vng ca không gian lnh lo:
Lơ thơ cn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu.
Hai t láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác gi khéo sp xếp trên cùng mt dòng thơ đã v nên mt quang cnh vng
lng. "Lơ thơ" gi s ít i, bé nh "đìu hiu" li gi s qunh qu. Gia khung cnh "cn nh", gió thì "đìu hiu", mt
khung cnh lnh lo, tiêu điu y, con người tr nên đơn côi, rn ngp đến độ tht lên "Đâu tiếng làng xa vãn ch
chiu". Ch mt câu thơ mà mang nhiu sc thái, va gi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rt, có th là câu hi
"đâu" như mt ni nim khao khát, mong mi ca nhà thơ v mt chút s hot động, âm thanh s sng ca con
người. Đó cũng có th là "đâu có", mt s ph đnh hoàn toàn, chung quanh đây chng h có chút gì sng động để
xua bt cái tch liêu ca thiên nhiên.
Đôi mt nhân vt tr tình nhìn theo nng, theo dòng trôi ca sông:
"Nng xung, tri lên sâu chót vót,
Sông dài, tri rng, bến cô liêu."
"Nng xung, tri lên" gi s chuyn động, m rng v không gian, và gi c s chia lìa: bi nng và tri mà li
tách bch khi nhau. "sâu chót vót" là cnh din đạt mi m, đầy sáng to ca Huy Cn, mang mt nét đẹp hin
đại. Đôi mt nhà thơ không ch dng bên ngoài ca tri, ca nng, mà như xuyên thu và c vũ tr, c không
gian bao la, vô tn. Cõi thiên nhiên y qu là mênh mông vi "sông dài, tri rng", còn nhng gì thuc v con
người thì li bé nh, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
V đẹp c đin ca kh thơ hin ra qua các thi liu quen thuc trong Đường thi như: sông, tri, nng, cuc sông
cón người thì bun t, chán chường vi "vãn ch chiu", mi th đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ li nhìn v dòng sông, nhìn cnh xung quanh mong mi có chút gì quen thuc mang li hơi m cho tâm
hn đang chìm vào giá lnh, v cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp tr s khao khát y bng nhng hình nh càng
qunh qu, đìu hiu:
Bèo dt v đâu, hàng ni hàng,
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cn gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Hình nh cánh bèo trôi bng bnh trên sông là hình nh thường dùng trong thơ c đin, nó gi lên mt cái gì bp
bênh, ni trôi ca kiếp người vô định gia dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cn không ch có mt hay hai cánh bèo,
mà là "hàng ni hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rn ngp trước thiên nhiên, để t đó cõi lòng
càng đau đớn, cô đơn. Bên cnh hàng ni hàng cánh bèo là "b xanh tiếp bãi vàng" như m ra mt không gian bao
la vô cùng, vô tn, thiên nhiên ni tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hot ca con
người, không có s giao hoà, ni kết:
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt.
Tác gi đưa ra cu trúc ph định. "...không...không" để ph định hoàn toàn nhng kết ni ca con người. Trước mt
nhà thơ gi đây không có chút gì gi nim thân mt để kéo mình ra khi ni cô đơn đang bao trùm, vây kín, ch có
mt thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cu hay chuyến đò ngang, phương tin giao kết ca con người, dường
như đã b cõi thiên nhiên nhn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cn li khéo v nét đẹp c đin và hin đại cho bu tri trên cao:
Lp lp mây cao đùn núi bc,
Chim nghiêng cánh nh bóng chiu sa.
Bút pháp chm phá vi "mây cao đùn núi bc" thành "lp lp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra nhng núi mây
trng được ánh nng chiếu vào như dát bc. Hình nh mang nét đẹp c đin tht tr tình và li càng thi v hơn khi
nó được khơi ngun cm hng t mt t thơ Đường c ca Đỗ Ph:
Mt đất mây đùn ca i xa.
Huy Cn đã vn dng rt tài tình động t "đùn", khiến mây như chuyn động, có ni lc t bên trong, tng lp tng
lp mây c đùn ra mãi. Đây cũng là mt nét thơ đầy cht hin đại, bi nó đã vn dng sáng to t thơ c đin quen
thuc.
Và nét hin đại càng bc l rõ hơn qua du hai chm thn tình trong câu thơ sau. Du hai chm này gi mi quan
h gia chim và bóng chiu: Chim nghiêng cánh nh kéo bóng chiu, cùng sa xung mt tràng giang, hay chính
bóng chiu sa, đè nng lên cánh chim nh làm nghiêng lch c đi. Câu thơ t không gian nhưng gi được thi gian
bi nó s dng "cánh chim" và "bóng chiu", vn là nhng hình tượng thm m để t hoàng hôn trong thơ ca c
đin.
Nhưng gia khung cnh c đin đó, người đọc li bt gp nét tâm trng hin đại:
Lòng quê dn dn vi con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.
"Dn dn" là mt t láy nguyên sáng to ca Huy Cn, chưa tng thy trước đó. T láy này hô ng cùng cm t
"vi con nước" cho thy mt ni nim bâng khuâng, cô đơn ca "lòng quê". Ni nim đó là ni nim nh quê hương
khi đang đứng gia quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trng chung ca nhà thơ mi lúc
bây gi, mt ni lòng đau xót trước cnh mt nước.
Bên cnh tâm trng hin đại y là t thơ c đin được gi t câu thơ: "Trên sông khói sóng cho bun lòng ai" ca
Thôi Hiu. Xưa Thôi Hiu cn vn vào sóng để mà bun, mà nh, còn Huy Cn thì bun mà không cn ngoi cnh,
bi t ni bun nó đã sâu sc lm ri. Thế mi biết tm lòng yêu quê hương thm thiết đến nhường nào ca nhà
thơ hôm nay.
C bài thơ va mang nét đẹp c đin, va mang nét hin đại. V đẹp c đin được th hin qua li thơ by ch
mang đậm phong v Đường thi, qua cách dùng t láy nguyên, qua vic s dng các thi liu c đin quen thuc như:
mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vn dng các t thơ c đin, gi cho bài thơ không khí c kính, trm
mc ca thơ Đường.
V đẹp hin đại lan to qua các câu ch sáng to, độc đáo ca nhà thơ như "sâu chót vót", du hai chm thn
tình. Nhưng v đẹp y đọng li cui cùng là tâm trng nh quê hương ngay khi đứng gia quê hương, nét tâm trng
hin đại ca các nhà tri thc mun đóng góp sc mình cho đất nước mà đành bt lc, không làm gì được.
Bài thơ s còn mãi đi vào lòng người vi phong cách tiêu biu rt "Huy Cn", vi v đẹp c đin trang nhã sâu lng
và v đẹp hin đại mang nng mt tm lòng yêu nước, yêu quê hương