Bàn về khái niệm quyết toán Ngân

sách nhà nước (Phần 1)

Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong

một chu trình ngân sách nhằm tổng kết, đánh

giá việc chấp hành NSNN cũng như các chính

sách tài chính ngân sách của năm ngân sách đã qua. Với

hàm nghĩa đó, quyết toán NSNN trở thành một khâu quan

trọng, là nhiệm vụ của nhiều cơ quan, đơn vị từ đơn vị sử

dụng ngân sách, cơ quan quản lý ngân sách, cơ quan kiểm

tra, kiểm soát ngân sách cho đến cơ quan quyền lực tối cao

của mỗi quốc gia.

Có thể nói rằng, từ trước đến nay vấn đề quyết toán NSNN ít

được quan tâm nhất. Điều này xuất phát từ quan niệm cho rằng,

xem xét quyết toán NSNN chỉ là xem xét lại các vấn đề ngân sách

đã diễn ra, vấn đề đã trở thành quá khứ (thậm chí thời gian đã

qua tương đối lâu). Nếu như các tranh luận mang tính chính trị

thường diễn ra khá gay gắt khi xem quyết định dự toán ngân

sách thì xu hướng ngược lại là ít thấy cuộc tranh luận nào thật sự

sôi động, thằng thắn khi xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN.

Tuy một thực tế là hầu như luật pháp của các nước nói chung và

Việt Nam nói riêng lại đề cao vai trò của quyết toán NSNN. Đại đa

số các nước đều quy định quyết toán NSNN phải được cơ quan

quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội hay Nghị viện) xem xét,

phê chuẩn. Và điều này đã khẳng định quyết toán NSNN cũng là

vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia, cần được nghiên cứu, xem

xét kỹ lưỡng. Cho đến nay, có rất ít học giả nghiên cứu một cách

độc lập và đầy đủ về quyết toán NSNN mà chủ yếu nghiên cứu

trong tổng thể chu trình NSNN. Để làm rõ khái niệm về quyết toán

NSNN cần nghiên cứu một số quan niệm liên quan mà các học

giả trong nước đã đưa ra. Theo tác giả Nguyễn Văn Đạm trong

Từ điển Tiếng Việt, do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành

thì “quyết toán là việc tính toán các khoản thu chi trong một

khoảng thời gian nhất định báo cáo cơ quan quản lý”. PGS.PTS

Lê Văn Tề trong Từ điển Kinh tế Tài chính Ngân Hàng đã quan

niệm “Quyết toán (Statement of account) là Báo cáo kế toán định

kỳ do nhà cung cấp gửi cho khách hàng ấn định giá trị tiền tệ của

các sản phẩm đã cung cấp cho khách hàng qua thời gian một

tháng, nhỏ hơn, hoặc lớn hơn và số tiền đó do khách còn nợ đối

với các sản phầm này”. Tác giả Nguyễn Như ý trong Đại từ điển

Tiếng Việt, quan niệm quyết toán là việc tổng kết thu, chi kinh phí

ngân sách của một tổ chức cơ quan. Như vậy có thể thấy các tác

giả trong nước đã có những quan niệm khác nhau về quyết toán.

Đa số các tác giả đưa ra khái niệm đều chỉ chú trọng đến vấn đề

tính toán về mặt số liệu thu và chi bằng tiền của một tổ chức cơ

quan, xí nghiệp hay nhà nước. Tác giả Nguyễn Văn Đạm ngoài

việc đề cập đến vấn đề số liệu còn đề cập đến trách nhiệm báo

cáo, tức là phải gửi báo cáo quyết toán cho cơ quan có thẩm

quyền.

Để có thêm cơ sở phân tích, cần nghiên cứu thêm quan niệm về

quyết toán NSNN của một vài nước trên thế giới. Theo sổ tay

thẩm tra và giám sát dự toán do Ủy ban công tác dự toán của Ủy

ban thường vụ Quốc hội Trung Quốc biên soạn (Trường ĐH

Ngoại ngữ Hà Nội dịch theo đề nghị của Ủy ban Kinh tế và Ngân

sách của Quốc hội Việt Nam) thì “Quyết toán NSNN là phản ánh

cuối cùng về tình hình thực hiện thu, chi theo dự toán hàng năm,

cũng là sự phản ánh tập trung về tài chính kết quả thực hiện kế

hoạch phát triển kinh tế quốc dân và xã hội”. cơ quan Kiểm toán

Nhà nước (KTNN) Canada trong chuẩn mực kiểm toán đã đưa ra

quan niệm quyết toán tài chính ngân sách là cung cấp một cái

nhìn tổng quan về các vấn đều và nguồn lực tài chính và Chính

phủ phải chịu trách nhiệm theo thẩm quyền do Quốc hội giao (

Chuẩn mực KTNN Canada, tài liệu nguyên bản tiếng Anh). Qua

khái niệm trên, chúng ta có thể thấy rằng, các nước đã quan niệm

quyết toán NSNN rộng hơn các tác giả của Việt Nam. Nếu như

quan niệm của Trung Quốc ngoài việc cho rằng quyết toán NSNN

là phản ánh cuối cùng về tình hình thực hiện thu, chi theo dự toán

thì họ lại quan niệm rộng hơn ở chỗ cho rằng quyết toán NSNN là

sự phản ánh tập trung về tài chính kết quả thực hiện kế hoạch

KTXH. Các học giả của Trung Quốc đã quan niệm đầy đủ hơn

không chỉ ở giới hạn thu, chi theo dự toán mà con cho rằng quyết

toán NSNN là sự thể hiện về mặt tài chính kết quả thực hiện kế

hoạch KT-XH của một quốc gia. Tuy nhiên, quan niệm này cũng

chỉ mới dừng lại ở việc thực hiện được kế hoạch đề ra, chưa đi

sâu về việc quản lý và kiểm soát các nguồn lực của quốc gia.

Quan niệm về quyết toán TC của Canada có vẻ bao quát rộng

hơn các vấn đề của quyết toán NSNN hàng năm. Quan niệm thể

hiện ở 2 điểm: (1) cung cấp cái nhìn tổng thể về các vấn đề và

nguồn lực, thể hiện độ rộng, mức độ bao quát của quyết toán

ngân sách hàng năm. Báo cáo quyết toán NSNN của Canada

không chỉ về số liệu mà còn bao quát các nguồn lực tài chính của

nhà nước; (2) quy định trách nhiệm mà Chính phủ phải đảm nhận

trước Quốc hội. Nghĩa là các vấn đề diễn ra trong năm tài chính

về các vấn đề quản lý tài chính ngân sách đều thuộc trách nhiệm

Chính phủ (trách nhiệm pháp lý). Khái niệm không chỉ bao quát

độ rộng của quyết toán mà còn đề cập đến khía cạnh pháp lý và

trách nhiệm giải trình của Chính phủ về các vấn đề tài chính –

ngân sách của Quốc gia về năm tài khóa đã qua.

Qua các khái niệm đã đề cập ở trên chúng ta thấy được phạm vi,

mức độ cũng như khía cạnh pháp lý mà các học giả, các tổ chức

đã đưa ra. Mỗi khái niệm bao quát được một hoặc một số khía

cạnh của quyết toán ngân sách. Theo chúng tôi các khái niệm ở

trên mới chỉ đề cập một số khía cạnh của vấn đề quyết toán

NSNN thể hiện:

1. Đa số các khái niệm đề cập đến vấn đề số liệu của quyết

toán tức là tình hình thực hiện thu chi.

2. Đề cập đến khía cạnh thời gian, nghĩa là quyết toán đánh

giá tình hình thực hiện thu chi trong một khoảng thời gian

nhất định.

3. Khái niệm mà KTNN Canada đưa ra đã đề cập đầy đủ hơn

các quan điểm về trách nhiệm mà người báo cáo phải đảm

nhận, chỉ rõ người lãnh trách nhiệm về các vấn đề và nguồn

lực tài chính là Chính phủ.

Còn một số vấn đề mà các khái niệm đã nghiên cứu ở trên chưa

đề cập một cách rõ ràng đó là:

1. Về mặt pháp lý, người báo cáo chịu trách nhiệm về mặt

pháp lý tính đúng đắn trung thực của số liệu hay cả việc

tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc thực hiện

ngân sách. KTNN Canada có đề cập tới, song chưa rõ ràng

về mức độ chị trách nhiệm. Tác giả Nguyễn Văn Đạm lại chỉ

đề cập đến việc báo cáo cơ quan thẩm quyền mà chưa đề

cập đến trách nhiệm.

2. Việc sử dụng nguồn lực quốc gia trong năm tài chính có đạt

được mục tiêu đề ra hay không? Việc thực thi các chính

sách kinh tế tài chính như thế nào, tác động của nó ra sao

chưa được rõ ràng. Vấn đề này đã được các tác giả TQ,

Canada đưa ra nhưng chỉ dừng lại ở việc phán ánh tình hình

thực hiện kế hoạch KT-XH.

3. Về phạm vi để xác định quyết toán đa số các khái niệm mới

chỉ dừng lại ở việc thu, chi và thu, chi theo dự toán là chủ

yếu. Vậy các nguồn lực khác của nhà nước có mối liên hệ

với ngân sách hoặc chưa được dự toán giải quyết thì sao?

Ai chịu trách nhiệm? Chưa đề cập rõ ràng ngoại trừ khái

niệm của KTNN Canada đã chỉ ra một cách hết sức chung

về nguồn lực tài chính quốc gia.