Bệnh cườm nước
Trong các loại bệnh ở mắt thì bệnh cườm nước (Glaucom), dân gian thường
gọi là bnh "thiên đầu thống", là bệnh rất nguy hiểm, dễ gây mù mắt. Bệnh không
chxảy ra người lớn mà còn trẻ sinh, nếu không kịp thời phát hiện, điều
tr thì trẻ sẽ bị mù vĩnh viễn.
Bệnh cườm nước thường xuất hiện người trên 40 tuổi, đặc biệt là
những phụ nữ hay lo nghĩ, căng thẳng. Bệnh có yếu tố di truyền. Trong gia đình có
người mắc bệnh cườm nước thì những người ruột thịt nguy cơ mắc bệnh cao
gấp 5- 6 lần. Bệnh cườm nước không biểu hiện nhiễm trùng, bệnh nhân là
người lớn tuổi dễ nhầm lẫn với hiện tượng lão thị.
Do đó, bệnh thường được phát hiện muộn, bệnh nhân đến khám khi mắt đã
mờ hẳn thì đã quá muộn vì các tổn thương thần kinh thị giác không phục hồi được.
Khám mắt cho bệnh nhân nghèo Đức Phổ -
Quảng Ngãi.
Ảnh: Minh Thu
hai loại cườm nước: loại tiến triển nhanh (cấp tính) và loại tiến triển âm
thầm, chậm chạp (mạn tính). trường hợp bệnh nhân bị cườm nước một mắt
nhưng cũng có người bị bệnh ở cả hai mắt.
loại tiến triển cấp tính, người bệnh thấy nhức mắt, nhức nửa đầu, đôi khi
rất dữ dội, thể kèm theo nôn mửa, đau bụng, nhìn thấy các màu giống "cầu
vồng", hay thị lực giảm sút (nhìn mờ), mắt đỏ, cảm giác căng cứng, đồng tử giãn
n (con ngươi nở lớn). Dạng tiến triển âm thầm thì rất khó nhận biết, thường
người bệnh chỉ cảm giác hơi xốn, mắt mỏi, đôi khi cm thấy mắt mờ. Cả hai
trường hợp cấp tính hoặc mạn tính, bệnh nhân đều bị tổn thương thần kinh thị
giác. vậy, phát hiện bệnh sớm điều cực kỳ quan trọng. Để sớm phát hiện
bệnh cườm nước, khi mắt triệu chứng m, đau nhức, người bệnh không tý
dùng thuốc, mà phải đến cơ sở y tế chuyên khoa để được bác chỉ định thực hiện
các xét nghim phù hợp, điều trị bệnh. Với người trên 40 tuổi (đặc biệt là phụ nữ),
thường xuyên tiếp xúc với máy vi tính và m việc trong điều kiện căng thẳng tinh
thần, nên khám mắt định kỳ 6 tháng/lần.
Trem bị bệnh cườm nước các biểu hiện: sợ ánh sáng, khi bật đèn s
khóc thét lên, nếu còn mthì lúc no vẫn úp mặt vào ngực mẹ, chảy
nước mắt sống ròng cả hai bên mắt và hay nheo mắt. Trẻ bị bệnh cườm nước,
t6 tháng trở lên, thlực sẽ giảm dần, gia đình dphát hiện qua hội chứng mắt
trâu, tức mắt của bé sẽ nở to tròn, con ngươi to như mắt trâu.
Việc điều trị bệnh cườm nước rất phức tạp, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Việc
phẫu thuật chỉ thực hiện khi điều trị bằng thuốc không hiệu quả thường chỉ áp
dụng với trường hợp bệnh cấp tính. Đối với người mắc các bệnh mạn tính như đái
tháo đường, tim mạch, nếu mắc bệnh cườm nước thì phải điều trị kết hợp. Bệnh
nhân hoặc người thân phải chủ động cung cấp cho bác điều trị bệnh cườm nước
các thông tin về căn bệnh mạn tính của bệnh nhân.
Các phương pháp phẫu thuật chỉ nhằm giải quyết nguyên nhân gây bệnh
cườm nước. Sau phẫu thuật bệnh nhân phải duy trì nhãn áp mức ổn định, phải
khám mắt định kỳ 3 hoặc 6 tháng/lần, tốt nhất là dùng máy đo thị trường kế tự
động để kiểm tra, theo dõi diễn tiến bệnh lý. Trường hợp bệnh nhân bị bệnh cườm
nước cấp tính (thường chỉ xảy ra một bên mắt), khi đã phu thuật thì khng
bệnh lây sang mắt thứ hai là rất cao, cần phải được theo dõi thường xuyên.
Ngoài ra, bệnh nhân phải chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi thích hợp.
Không dùng thực phẩm chất kích thích (rượu, bia, cà phê, các chất cay,...),
không thức quá khuya, khi làm việc đừng để có biểu hiện mỏi mắt mới nghỉ ngơi.