
408
LẠM DỤNG
VÀ LỆ THUỘC VÀO CHẤT GÂY NGHIỆN
Mục tiêu:
1.
Trình
bày
đưc
nội
dung
tư
vấn
phòng
bệnh,
phát
hiện
sớm
các
trường
hp
lạm
dụng và nghiện chất.
2.
Trình bày đưc nguyên tắc
điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng.
ĐI CƯƠNG
Chất gây nghiện, sự
lạm dụng và lệ
thuộc vào chất gây nghiện đã trở
thành vấn đề
cấp
bách của nhiều quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Một mâu thuẫn đang tồn
tại đó là chất gây nghiện có thể
đem lại lợi
ích kinh tế
cho các quốc gia như chè, thuốc
lá, bia, rượu…; sự
phát triển của y học cũng đồng hành với sự
tham gia của các thuốc
gây nghiện (Morphin, Seduxen…), nhưng chất gây nghiện khi lạm dụng sẽ
có thể
khiến con người bị
lệ
thuộc vào chúng (hay còn gọi
là nghiện) và từ
đó mất kiểm soát
nhận thức và hành vi, gây tác động tiêu cực tới bản thân, gia đình và xã hội. Vấn đề
đặt ra là cần phải hiểu biết về
chất gây nghiện để
sử
dụng nó đem lại lợi ích, nhưng
cũng cần có những biện pháp can thiệp dựa trên các
bằng chứng khoa học để
ứng phó
với những tác động tiêu cực của chất gây nghiện, đặc biệt là khi đã lệ
thuộc vào chất
gây nghiện.
Ở
Việt Nam, điều trị
nghiện ma túy trong những năm qua đã có một sự
thay đổi và
bước phát triển đáng kể
dựa trên các bằng chứng khoa học của thế
giới, đặc biệt là vấn
đề
điều trị
thay thế
chất gây nghiện dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone.
1. SƠ LƯỢC VỀ
CHẤT GÂY NGHIN
1.1. Khái niệm về
chất gây nghiện
Theo Tổ
chức Y
tế
Thế
giới, chất gây nghiện là “chất hóa học sau khi được
hấp thu sẽ
làm thay đổi chức năng thực thể
và tâm lý của người sử
dụng”.
Điều 2,
Luật Phòng, Chống ma túy số
23/2000/QH10 của Quốc hội
“Chất gây
nghiện
là chất kích thích hoặc
ức chế
thần kinh, dễ
gây tình trạng nghiện đối với người
sử
dụng”.
Chất gây nghiện
ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm cả
chất gây nghiện
được
sử
dụng
hợp
pháp
như
thuốc
gây
nghiện
trong
điều
trị
(Benzodiazepine;
Morphine, Codein), như rượu, bia, thuốc lá, trà, cà phê, và bao gồm cả
chất gây nghiện
bất
hợp
pháp
hay
còn
gọi
là
ma
túy
(heroin,
thuốc
phiện,
cần
sa,
thuốc
lắc,
các
loại
chất gây nghiện kích thích dạng Amphetamins (ATS)…
1.2. Tình hình sử
dụng chất gây nghiện trên thế
giới và
ở
Việt Nam
1.2.1.
Tình hình sử
dụng rượu
Theo báo cáo
của
WHO
năm 2011, hàng năm có 2,5 triệu người chết vì rượu,
trong
đó
có
đến
1/3
số
người
là
giới
trẻ.
Rượu
có
liên
quan
đến
nhiều
vấn
đề
xã
hội
nghiêm
trọng
bao
gồm
cả
bạo
lực
và
lạm
dụng
trẻ
em.
Gánh
nặng
kinh
tế,
xã
hội
và
sức khỏe do lạm dụng rượu, bia trên toàn cầu đã đạt mức báo động trong những năm
gần đây.
Ở
Việt
Nam,
kết
quả
nghiên
cứu
“Đánh
giá
tình
hình
lạm
dụng
rượu,
bia
tại
Việt Nam” của Viện Chiến lược và chính sách
y tế
-
Bộ
Y tế
công bố
năm 2012 cho

409
thấy: Bình quân một người đàn ông Việt Nam uống 15,8 lít bia, 3,9 lít rượu trong một
năm. Tỷ lệ người Việt Nam đang lạm dụng rượu là 18%, bia là 5%. Lạm dụng rượu,
bia gây ra các hệ quả lâu dài về sức khỏe như đau dạ dày, viêm nhiễm thường xuyên,
tổn thương gan, rối loạn tim mạch, tổn thương cơ quan sinh sản, tổn thương não bộ
như: sa sút trí nhớ, lú lẫn, trầm cảm; ngòai ra còn các hệ quả tinh thần và các vấn đề xã
hội khác.
1.2.2. Tình hình sử dụng thuốc lá
Theo báo cáo của WHO ngày 31/5/2012, hút thuốc là một trong những nguyên
nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong. Hút thuốc gây tử vong cho gần 6 triệu người
mỗi năm. Uớc tính số tử vong do thuốc lá sẽ tăng lên thành hơn 8 triệu ca vào năm
2030.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ hút thuốc lá cao trên thế giới
(56,1% ở nam giới và 1,8% ở nữ giới), 2/3 số phụ nữ và 1/2 số trẻ em bị ảnh hưởng
thụ động của khói thuốc lá. Theo ước tính của Bộ Y tế, hàng năm có khoảng 40.000 ca
tử vong vì các bệnh liên quan đến thuốc lá, gần gấp 4 lần số ca tử vong vì tai nạn giao
thông đường bộ. Khói thuốc lá chứa hơn 4.000 chất hóa học, trong đó có 43 chất gây
ung thư, gây ra 25 căn bệnh nguy hiểm khác nhau như ung thư phổi, bệnh tim mạch,
phổi tắc nghẽn, vô sinh...
1.2.3 Tình hình sử dụng ma túy
Theo báo cáo về tình hình ma túy thế giới năm 2012 của Chương trình kiểm
soát tội phạm và ma túy của Liên hiệp quốc (UNODC), ước tính năm 2010 trên toàn
cầu có 230 triệu người sử dụng ma túy, trong đó 27 triệu người có vấn đề nghiêm
trọng do sử dụng ma túy; 200.000 người tử vong hàng năm do sử dụng heroin, cocain
và các loại ma túy khác. Trong số người tiêm chích ma túy, khoảng 20% nhiễm HIV,
46,7% mắc viêm gan C và 14,6% mắc viêm gan B, tạo thêm gánh nặng về bệnh tật cho
toàn cầu; khoảng 1/100 ca tử vong ở người lớn là do sử dụng ma túy bất hợp pháp.
Ở Việt Nam, theo số liệu từ Bộ Công an, tính tới cuối tháng 6 năm 2012, cả
nước có 171.400 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lí. So với cuối năm 1994, số
người nghiện ma túy đã tăng gấp 3 lần (55.445 người nghiện năm 1994) với mức tăng
xấp xỉ 6.000 người nghiện mỗi năm.
1.3. Một số loại ma túy ở Việt Nam
1.3.1. Thuốc phiện và các chế phẩm thuốc phiện (Opiats)
Thuốc phiện là nhựa của quả cây thuốc phiện (cây Anh túc). Các chất dạng
thuốc phiện (opioid) là những chất được chiết xuất từ nhựa thuốc phiện như:
morphine, heroine, codeine, thuốc phiện (opium)....). Heroin là dạng được sử dụng
phổ biến nhất ở Việt Nam chiếm khoảng 70% các loại ma tuý được sử dụng trong
những năm 90 của thế kỷ trước (Reid và Crofts 1999), đặc biệt là trong giới trẻ sống
tại các đô thị, thành phố. Tuy nhiên, thuốc phiện vẫn tiếp tục được sử dụng bởi những
người lớn tuổi sống ở vùng nông thôn và miền núi. Thuốc phiện thường được sử dụng
thông qua hút bằng dụng cụ chuyên dùng (tẩu, bàn đèn), một số ít người chích dung
dịch sái thuốc phiện vào tĩnh mạch. Heroin có thể được sử dụng bằng nhiều cách như
tiêm vào tĩnh mạch; Hút bằng tẩu có nước hoặc tẩu thông thường, hít dưới dạng bột
qua mũi; Đốt và hít khói trực tiếp

410
Quả cây thuốc phiện Bột Heroin
Đốt và hít Heroin Tiêm chích ma tuý
Biểu hiện lâm sàng khi lạm dụng thuốc phiện và các chế phẩm dạng thuốc phiện
*Sau khi sử dụng thuốc phiện thường xuất hiện các biểu hiện: Cảm giác ấm vùng thắt
lưng, ấm bụng, người nhẹ nhõm, lâng lâng như sóng lưn. Khoái cảm, liên tưởng
nhanh, tái hiện dễ.Tiếp theo là trạng thái ức chế vận động, ý thức thu hẹp, mất cảm
giác đói, khát, chỉ còn cảm giác yên tĩnh, ngủ lim dim, đầy mơ mộng, sau đó ngủ sâu
nếu dùng liều cao.
Tác dụng cũng có sự đa dạng, tùy thuộc vào từng người. Sau khi phê người sử
dụng thường cảm thấy buồn ngủ trong vài giờ. Tâm thần thường u ám, nhịp tim chậm,
nhịp thở chậm. Khi tác dụng của thuốc hết, cảm giác phê cũng mất đi.
* Khi tình trạng phụ thuộc kéo dài người nghiện có nhiều biến đổi về mặt tâm lý, xã hội
như: Hứng thú thu hẹp, khó tập trung chú ý, rối loạn trí nhớ, khí sắc không ổn định.
Mất khả năng đánh giá hành vi của bản thân, nhân cách suy đồi và biến đổi. Chịu ảnh
hưởng của nhóm xấu. Có thái độ thờ ơ với xã hội. Có hành vi tự sát.
1.3.2. Amphetamine
Amphetamin được tổng hợp vào năm 1932 tại Mĩ. Trước đây, người ta sử dụng
nó như 1 thuốc giảm đau, chống trầm cảm, điều trị suy nhược thần kinh, béo phì. Tuy
nhiên, hiện nay do quá nhiều tác dụng khác mà nó mang lại, đặc biệt là khả năng gây
nghiện thuốc nên đã bị cấm sử dụng trong y học.
Biểu hiện lâm sàng ở người nghiện khi sử dụng amphetamine chủ yếu là trạng
thái kích thích, hưng phấn gây khoái cảm, Tâm thần khoan khoái, dễ chịu, tan biến các
ức chế, tăng lòng tự tin, hoà nhã và cởi mở với mọi người.

411
Nếu người bệnh dùng amphetamine liều cao, có thể dẫn đến ý tưởng và hành vi
tự sát. Sảng do dùng amphetamine thường liên quan đến việc sử dụng liều cao hoặc
dùng kết hợp với các loại ma tuý khác, đặc biệt là những người có tổn thương não.
Các rối loạn loạn thần thường gặp khi giảm hoặc ngừng sử dụng amphetamine là
hoang tưởng ảo giác tương tự trong bệnh tâm thần phân liệt thể paranoid. Tuy nhiên các
triệu chứng này chỉ kéo dài vài ngày và trên bệnh cảnh lâm sàng ít gặp cảm xúc bàng
quan so với người bệnh tâm thần phân liệt. Chỉ định điều trị tình trạng này là sử dụng
an thần kinh (Haloperidol) trong một thời gian ngắn. Các rối loạn cảm xúc khi dùng
amphetamine là hưng cảm hoặc loạn cảm còn khi ngừng sử dụng amphetamine có thể
là trầm cảm.
Các rối loạn chức năng tình dục. Amphetamine thường được sử dụng để tăng
cường năng lực tình dục.Tuy nhiên khi sử dụng liều cao, dài ngày có thể gây rối loạn sự
cương cứng và các chức năng tình dục khác.
1.3.3. Cần sa
Cần sa còn có tên như tài mà, gai dầu, gai mèo, lanh mèo, lanh mán, đại
ma, hỏa ma, bồ đà (Cannabis) là một chi thực vật có hoa bao gồm ba loài: Cannabis
sativa L, Cannabis indica Lam và Cannabis ruderalis Janisch. Ba loài này là thực vật
với bản địa ở Trung Á và các khu vực xung quanh. Cần sa đã được sử dụng từ lâu để
lấy sợi, hay dùng như chất ma túy hay trị bệnh
Cần sa thường được sử dụng dưới dạng lá (khô, tươi) hoặc nhựa (hachich) bằng
cách hút như thuốc lá hoặc hút bàn đèn... Tác dụng của cần sa xuất hiện sau khi sử
dụng khoảng 30 phút và kéo dài 3-4 giờ.
Biểu hiện lâm sàng ở người nghiện khi sử dụng cần sa chủ yếu là trạng thái kích
thích, hưng phấn gây khoái cảm. Tâm thần khoan khoái, dễ chịu, tan biến các ức chế,
tăng lòng tự tin, hoà nhã và cởi mở với mọi người. Người sử dụng cảm thấy tăng cảm
giác với các kích thích bên ngoài. Kỹ năng vận động suy giảm. Sau 6-8 giờ dùng cần sa
sự suy giảm kỹ năng vận động còn làm ảnh hưởng đến việc lái xe, vận hành máy
móc…hơn nữa, những tác động không tốt này còn nặng thêm do tác dụng của rượu là
thứ rất phổ biến mà những người sử dụng cần sa thường dùng kết hợp.
Khi sử dụng cần sa liều cao có thể gây trạng thái suy giảm khả năng nhận thức,
giảm nhớ, rối loạn tri giác, chú ý...
1.3.4. Cocaine
Cocain là loại ma túy chiết xuất từ lá coca, có tinh thể hình kim, không màu và
không mùi, vị hơi đắng mát và gây cảm giác hơi tê cho đầu lưỡi.
Cocain lần đầu tiên được một dược sĩ - hóa học người Đức (tên là Albert Niemann),
chiết xuất từ lá cây coca vào năm 1860. Đến năm 1883 cocain mới được một bác sĩ thử
nghiệm với binh lính Đức và cho kết quả là sự hồi phục sức khỏe đáng kinh ngạc.
Năm 1884 dược tính của cocain lại được phát hiện thêm tác dụng giảm đau, có công
hiệu với bệnh lao phổi, hen suyễn, đau thần kinh liên sườn, đau răng. Những tác dụng
làm tăng sức khỏe của cocain đã khiến trong những năm đầu của lịch sử chế phẩm,
cocain có mặt trong nhiều loại thuốc bổ, kẹo, bánh và nước giải khát.
Tuy vậy, với sự phổ biến của cocain, các nhà khoa học cũng nhận thấy tác
dụng gây nghiện, gây hoang tưởng bộ phận rất mạnh của thuốc. Bởi vậy, cocain được

412
xếp vào nhóm ma túy và bị luật pháp của hầu hết quốc gia ngăn cấp tàng trữ, mua bán,
vận chuyển và sử dụng trái phép.
1.3.5. Nước biển
Nước biển hay GHB thực chất là có tên gọi Gramma hydroxy axit butyrat, được
bào chế và sử dụng như một loại thuốc gây mê và giảm đau cách đây gần 50 năm.
GHB khi được sử dụng trực tiếp với một lượng vừa phải mang lại cho người “chơi” nó
cảm giác hưng phấn lâng lâng và kích thích dục vọng
1.3.6. Một số loại ma túy mới
Cỏ Mỹ (K2/spice)
Đây thực chất là lá, thân, rễ của một loại cây thực vật được tẩm ướp chất gây
nghiện nguồn gốc từ nước ngoài, thẩm lậu vào trong nước chủ yếu từ Trung Quốc.
Vấn đề đáng chú ý là để gây sự thu hút, các loại này thường đóng gói trong bao bì có
mẫu mã đẹp, bắt mắt. Cỏ Mỹ là loại thực vật dạng cỏ có tẩm ướp chất gây nghiện
(XLR-11, JWH-018, 073, 200… Tất cả chất này đều có trong danh mục cấm theo nghị
định 126). Cũng như muối tắm, trên bao bì luôn có dòng chữ “không dùng cho người –
not for human consumption”.
Cỏ Mỹ (K2/spice).
Cách sử dụng cỏ Mỹ cũng giống như là cần sa là cuốn hút như thuốc rê. Nhưng
khi hút cỏ Mỹ không gây mùi khét đặc trưng như cần sa nên khó bị phát hiện hơn. Khi
sử dụng cỏ Mỹ sẽ gây ảo giác mạnh, giãn đồng tử, căng thẳng, kích động cực đoan.
Do gây kích thích tên hệ thần kinh mạnh hơn so với cần sa nên Cỏ Mỹ được nhiều
người ưa chuộng hơn và gây tác hại nặng nề hơn.
Lá "Khát"
Lá khát (hay Kat, Qat, Ghat hoặc Chat) còn gọi với cái tên khá hay là lá "Thiên
đường" (tên khoa học: Catha edulis) là loại cây bụi được trồng, sử dụng và buôn bán ở
nhiều nước châu Phi, vùng Nam Ả Rập.
Lá Khát mới xuất hiện tại Việt Nam từ tháng 3 năm 2016 nhưng lực lượng chức
năng đã tịch thu được gần 5 tấn. Lá Khát có chứa thành phần Cathinone, là chất ma túy
rất độc hại thuộc Danh mục I – Nghị định 82/2013/NĐ-CP, có tác dụng tương tự như
loại ma túy đá Amphetamine.
Muối tắm (bath salts)