
BỆNH HỌC THỰC HÀNH
ALZHEIMER
Năm 1907, Gs Alois Alzeimer người Đức, lần đầu tiên đã mô tả về
chứng trạng của bệnh này ở một phụ nữ 55 tuổi, vì vậy tên ông được dùng
để đặt cho tên bệnh.
Bệnh được định nghĩa trên thực thể lâm sàng và giải phẫu bệnh. Về
lâm sàng đây là sự sa sút trí nhớ hoặc mất trí, bệnh nhân không còn khả năng
lý luận, suy nghĩ. Sự sa sút này tiến triển châm trong nhiều năm.
Về giải phẫu, bệnh có sự teo lan toả của vỏ não với sưn giãn rộng hệ
thống não thất một cách thứ phát.
Bệnh thường gặp ở người cao tuổi: trên 70 tuổi là 10%, hiếm gặp ở
người dưới 55 tuổi (0,05 ~ 0,1%), tần suất bệnh tăng dần từ 0,5% ở tuổi 65
đến 5% ở tuổi 75 và 20% sau tuổi 85.
Đông Y xếp vào loại Lão Niên Tính Si Ngai (Dại Khờ nơi người lớn
tuổi), Vô Trí, Văn Trí.

Nguyên Nhân
Tuy chưa rõ nhưng theo các nhà nghiên cứu, có một số nguyên nhân
thường được nhắc đến:
. Môi sinh (thuốc trừ sâu, môi trường ô nhiễm…).
. Bệnh tự miễn dịch.
. Sử dụng nhôm (được tìm thấy trong não bị lão hoá).
. Rối loạn ở đường dẫn truyền thần kinh liên quan đến trí nhớ.
. Di truyền (khoảng 10%).
Theo Đông Y:
Do tiên thiên bất túc, do tuổi già, nội thương do thất tình, ăn uống
không điều hoà.
Triệu Chứng
Khởi đầu bởi nhiều rối loạn nhẹ, sau đó là trí nhớ giảm dần và không
hồi phục được.
Bệnh diễn tiến qua bốn giai đoạn:

Bước đầu là khó khăn trong việc nhận biết được những gì mới, rối
loạn về ngôn ngữ, đặc biệt là tìm chữ để nói, thay đổi nhân cách, có khi trở
nên hung hăng, khiêu khích.
Bước thứ hai là không thể nhớ nổi, hay quên rồi dần thành đãng trí,
thờ ơ. Bệnh nhân không tự chăm sóc được cho mình kể cả ăn mặc, vệ sinh.
Rồi không phân biệt được sáng, chiều, tối, không còn đọc được, không hiểu
người khác nói gì, không nhận ra người thân, hoàn toàn mất hết nhận thức.
Có thể bị ảo giác, ảo tưởng, dáng đi thay đổi, run rẩy nhưng hiếm khi bị run
lúc nghỉ, đều và nhanh. Giai đoạn nặng hơn, bệnh nhân không thể đi được,
không làm được bất cứ việc gì thậm chí không thể nuốt và ăn được. Giai
đoạn cuối, bệnh nhân bị hôn mê và chết do rối loạn dinh dưỡng, nhiễm trùng
thứ phát, bệnh lý tim mạch…
Thường bệnh diễn tiến khoảng 8 ~ 10 (có khi đến 25 năm).
Theo Đông Y
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Do Can Khí Uất Kết Kèm Đờm Trệ: Dễ tức giận, Tâm phiền, uất ức,
không muốn nói, hông sườn đầy tức, đau, lưỡi bẩn, rêu lưỡi dầy, nhớt, mạch
Hoạt.

Điều trị: Sơ Can, lý khí, hoạt huyết, hoá đờm. Dùng bài Can Uất
Phương Gia Vị: Xuyên khung, Đan sâm đều 15g, Đào nhân, Hồng hoa, Xích
thược, Hương phụ đều 12g, Bán hạ, Sài hồ, Trần bì, Thanh bì, Thạch xương
bồ đều 9g. Sắc uống.
(Hương phụ, Sài hồ, Thanh bì sơ Can, giải; Trần bì, Bán hạ, Thạch
xương bồ thấm thấp, hoá đờm. Ngoài ra, Thạch xương bồ còn khai khiếu,
tỉnh thần; Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Xích thược hoạt
huyết, hoá ứ).
Hoả thịnh thêm Chi tử, Đơn bì đều 9g; Huyết hư thêm Đương quy 9g,
thay Xích thược bằng Bạch thược; Tỳ hư thêm Bạch truật, Phục linh đều 9g,
Cam thảo 6g.
Châm Cứu
Châm Bá hội, Tứ thần thông, Thái xung, Tam âm giao, Phong
long.
(Bá hội, Tứ thần thông khai khiếu, tỉnh thần, tăng trí nhớ; Thái xung
sơ Can, giải uất; Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long thấm thấp, hoá
đờm).

Châm lâu ngày, có thể thay đổi dùng các huyệt trên đầu sau đây:
Thượng tinh, Tiền đỉnh, Hậu đỉnh, Cách du, Can du, Hồn môn, Tỳ du. Hoả
thịnh dùng Hành gian thay Thái xung, thêm Hiệp khê. Huyết hư thêm Cách
du, Can du; Tỳ hư thêm Túc tam lý; Hông sườn đau thêm Chương môn.
+ Can Thận Âm Hư Kèm Đờm Trệ: Bệnh kéo dài, chóng mặt, đầu
vángtê và rung chân tay, trí nhớ giảm, chậm chạp, mắt không còn thần (dại),
da mặt kém tươi, mồ hôi trộm, da khô, tức giận bất thường, run hoặc co rút
cơ. Nặng hơn thì không đi lại được, có khả năng liệt nửa người, khó nói,
lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư bổ Can Thận, hoạt huyết, hoá đờm. Dùng bài Lục Vị Địa
Hoàng Hoàn Gia giảm: Thục địa, Phục linh đều 15g, Sơn thù du, Đơn bì,
Trạch tả, Xích thược, Bạch thược, Xuyên khung, Hồng hoa đều 12g, Đào
nhân, Thạch xương bồ, Viễn chí đều 9g. Sắc uống.
(Thục địa, Sơn thù bổ ích Can Thận; Bạch thược dưỡng Can huyết,
nhu Can; Phục linh, Trạch tả, Viễn chí và Thạch xương bồ thấm thấp, hoá
đờm. Viễn chí Thạch xương bồ khai khiếu, ích trí; Phục linh kiện Tỳ, tỉnh
thần; Trạch tả dẫn hoả xuống; Đơn bì, Xích thược, Xuyên khung, Hồng hoa
và Đào nhân hoạt huyết, hoá ứ).

