
BỆNH HỌC THỰC HÀNH
HO RA MÁU
(Khái Huyết – Hemoptysis – Hémoptysie)
Là trạng thái máu ở Phổi do ho mà ra hoặc toàn là máu, hoặc máu lẫn
trong đờm.
Ho ra máu chỉ là triệu chứng của nhiều nguyên nhân, nhưng triệu
chứng lâm sàng có nhiều điểm giống nhau trong mọi trường hợp.
Ho ra máu có thể xẩy ra đột ngột trong lúc người bệnh cảm thấy khoẻ
mạnh, hoặc sau khi hoạt động mạnh, sau khi ăn nhiều, nói nhiều, xúc cảm
mạnh, thay đổi thời tiết đột ngột hoặc trong giai đoạn hành kinh.
Thông thường 90% trường hợp ho ra máu là do bệnh lao đang tiến
triển (Nếu kèm ho kéo dài, sốt nhẹ, sút cân thì càng chắc chắn). Nếu ho ra
máu chút ít lẫn trong đờm, tái phát một vài lần mà không có sốt hoặc sút cân
cũng nên nghĩ đến bệnh lao kín đáo.

Nguyên Nhân
Theo YHHĐ
. Ở phổi có thể do: Lao phổi, Các bệnh nhiễm khuẩn gây tổn thương ở
phổi (viêm phổi, áp xe phổi, cúm)…
. Các bệnh khác của đường hô hấp: Giãn phế quản, ung thư phổi, sán
lá phổi, nấm phổi…
. Bệnh ngoài phổi: tim mạch, tắc động mạch phổi, vỡ phồng quai động
mạch chủ…
Theo Đông Y
Từ rất xưa, sách Nội Kinh đã đề cập đến tà khí bên ngoài xâm nhập
vào, tình chí không điều hoà có thể gây nên ho ra máu.
Thiên ‘Ngọc Cơ Chân Tạng Luận’ (Tố Vấn 19) viết: “Mạch mùa
Thu… bất cập thời khiến người ta bị suyễn, hơi thở thiếu khí mà ho, ở phần
trên đôi khi thấy có máu…”.
Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn 74) viết: “ Thiếu dương Tư
thiên… mắc bệnh đầu thống, phát sốt, sợ lạnh mà sốt rét. Nhiệt phát ra bì
phu, bì đau, sắc biến ra vàng hoặc đỏ, gây nên chứng thuỷ, mình, mặt phù,

thủng, bụng đầy trướng, phải ngửa lên mà thở, kiết lỵ đỏ hoặc trắng, mụn lở,
ho, ho ra máu, Tâm phiền, trong ngực nóng, quá lắm thời cừu, nục (chảy
máu cam)…”.
Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh Khu 10) viết: “Túc Thiếu âm Thận kinh…
Nếu là bệnh thuộc ‘Thị động’ sẽ gây thành chứng đói mà không muốn ăn,
mặt đen như dầu đen, lúc ho nhổ nước bọt thấy có máu, suyễn nghe khò
khè…”.
Thiên ‘Mạch Giải’ (Tố Vấn 49) viết: “Nói là Khái thời lại có huyết...
Đó là vì Dương mạch bị thương. Dương khí chưa thịnh ở bộ phận trên mà
mạch lại mãn. Mãn thời khái, mà thường khi lại ra cả ở mũi”.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận – Khái Thấu Nùng Huyết Hậu’
viết: Phế bị cảm hàn nhẹ thì thành ho, ho làm thương tổn dương mạch thì có
máu”.
Sách ‘Huyết Chứng Luận’ nhận định: “ … Vậy trước phải biết nguồn
gốc của bệnh ho rồi sau mới trị được bệnh khái huyết… Hoặc do ngoại cảm
ra máu, hoặc do bì mao hợp với Phế gây ho, hoặc do tích nhiệt ở Vị, hoả
thịnh lấn kim khiến khí nghịch lên gây ho, đó là thực chứng của chứng mất
máu gây nên. Hoặc do âm hoả vượng lên, Phế không yên, không thanh, khô

ráo gây nên ho, hoặc hợp với lo nghĩ, u uất của Tỳ cùng với hư hoả của Tâm
gây nên ho, hoặc do Thận dương hư, dương khí không nương vào đâu được,
bốc lên gây ra ho, đó là hư chứng của bệnh thất huyết mà sinh ho vậy”.
Trên lâm sàng, theo Đông Y, ho ra máu có thể do:
+ Ngoại Tà Lục Dâm xâm nhập vào Phế gây nên ho, nếu tà khí làm
tổn thương Phế lạc, huyết tràn vào khí đạo sẽ gây nên ho ra máu.
+ Can Hoả Phạm Phế: Phế khí vốn suy yếu, nay do tức giận, tình chí
không thoải mái, Can uất hoá thành hoả, bốc lên làm tổn thương ngược lại
Phế, Phế lạc bị tổn thương thì sẽ ho ra máu.
+ Phế Thận Âm Hư: Thận âm là gốc của âm dịch, Phế âm là gốc của
Thận âm (Kim sinh thuỷ), bệnh lâu ngày làm cho khí âm bị hao tổn gây nên
âm hư, Phế táo, hư hoả quấy nhiễu bên trong, làm cho lạc của Phế bị tổn
thương, gây nên ho ra máu.
+ Khí Hư Bất Nhiếp: Khí là vị tướng coi sóc huyết, khí có tác dụng
nhiếp huyết, nếu do lao thương quá sức hoặc do ăn uống không điều độ hoặc
thất tình nội thương hoặc ngoại cảm lục dâm, bệnh kéo dài trị không khỏi
đều có thể làm tổn thương chính khí, khí hư không nhiếp được huyết, huyết
có ai cai quản sẽ đi lên vào khí đạo, gây nên hoa ra máu. Sách ‘Cảnh Nhạc

Toàn Thư – Thổ Huyết Luận’ viết: “Ưu tư quá mức làm hại Tâm Tỳ, gây
nên thổ huyết, ho ra máu”.
+ Uống Nhiều Loại Thuốc Cay, Ấm, Nóng: Do cơ thể vốn suy nhược,
hoặc bệnh lâu ngày hư yếu mà lại thích tư bổ và cường dương, uống những
loại thuốc ôn, táo, nhiệt lâu ngày táo nhiệt sẽ sinh ra bên trong, hoá thành
hoả, làm tổn thương tân dịch, gây thương tổn Phế lạc sinh ra khái huyết.
Chẩn Đoán Phân Biệt
. Nôn ra máu. Cảm giác trước khi nôn là nôn nao khác với ho ra máu
là nóng và ngứa trong ngực và cổ.
. Chảy máu cam: nên xem trong lỗ mũi có máu hay không.
. Chảy máu trong miệng: Không nóng và ngứa trong ngực và cổ. Nên
khám miệng, niêm mạc miệng, lợi, lưỡi.
. Giãn phế quản: thường gặp nơi người lớn tuổi, dễ lầm với lao phổi.
. Ung thư phế quản: thường ra máu mầu sẫm hoặc lờ lờ như máu cá,
không đỏ tươi như trong lao phổi.
. Viêm loét thanh quản: không ra máu nhiều, kèm ngứa rát trong họng.

