
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢM TỶ LỆ TRẺ SUY DINH DƯỠNG
Ở CÁC LỚP BÁN TRÚ

2
PHÒNG GD-ĐT NINH SƠN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG MẪU GIÁO MỸ SƠN Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Tên đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢM TỶ LỆ TRẺ SUY DINH DƯỠNG
Ở CÁC LỚP BÁN TRÚ
Họ và tên tác giả: NGUYỄN THỊ HÀ
Chức vụ: Hiệu trưởng
I. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến kinh nghiệm:
Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào và dưới mọi chế độ xã hội thì việc đào tạo
con người cũng đều vô cùng quan trọng, đặc biệt là việc chăm sóc, giáo dục khi
còn nhỏ, bởi vì trẻ em là tài sản và là công dân tương lai của đất nước, những con
người sau này sẽ kế tục sự nghiệp của cha ông.
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là:”Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta trong Di chúc của Người.
Đảng ta đã chỉ rõ:”Các em thiếu niên, nhi đồng ngày nay sẽ là lớp người xây
dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và chủ nghĩa Cộng sản sau này. Quan tâm đến thiếu niên,
nhi đồng là quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng một lớp người mới không những
phục vụ cho sự nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa hiện nay mà còn chính là cho sự nghiệp
xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản sau này”.
Đất nước ta đang hội nhập thực hiện CNH – HĐH, nguồn nhân lực là chiến
lược quan trọng mà Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Làm thế nào để tạo nên
một thế hệ tương lai: khỏe mạnh, thông minh, cơ thể phát triển hài hòa, cân đối.
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em là chuẩn bị một nguồn lực bổ sung liên
tục, lực lượng lao động mới có phẩm chất, năng lực, trình độ và thể lực ngày càng
cao hơn phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Từ 0 – 5 tuổi là thời kỳ hoàn chỉnh hệ thống thần kinh trung ương và vỏ não,
quyết định năng lực trí tuệ tương lai của trẻ. Dinh dưỡng hợp lý, chăm sóc giáo
dục có khoa học sẽ tạo điều kiện tốt cho trẻ phát triển và trưởng thành, góp phần
quan trọng trong việc tạo ra một thế hệ mầm non khỏe mạnh, thông minh xây dựng
đất nước trong tương lai. Đây là trách nhiệm cao cả mà toàn xã hội, gia đình, giáo
viên mầm non đặc biệt là cán bộ quản lý trường mầm non, mẫu giáo phải thực hiện
tốt. Trong nhiều năm quản lý đơn vị, tôi nhận thấy hiện nay cùng với kinh tế địa
phương phát triển, bậc học mầm non cũng phát triển theo, chất lượng chăm sóc và
giáo dục trẻ được nâng dần, các lớp bán trú được hình thành tuy nhiên số trẻ học

3
mẫu giáo vẫn còn bị suy dinh dưỡng khoảng 10%. Đây là điều làm tôi băn khoăn,
suy nghĩ làm thế nào giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong trường tiến đến xóa tình
trạng suy dinh dưỡng cho trẻ khi đạt trường chuẩn quốc gia vào năm 2015.
Hình ảnh những cháu khỏe mạnh, tích cực trong học tập, hồn nhiên tung
tăng vui đùa trong giờ chơi, tự tin khi trả lời hoặc đặt câu hỏi để hỏi cô giáo về
những hiện tượng, sự vật xung quanh thôi thúc tôi phải phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng trong đơn vị mà trước tiên là giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp
bán trú. Tôi đã chọn: “Một số biện pháp để giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp
bán trú” thực hiện trong năm học 2011 – 2012.
II/ Quá trình thực hiện và các giải pháp :
Theo kế hoạch khi thực hiện “Một số biện pháp để giảm tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng ở các lớp bán trú” tôi cần phải thực hiện các bước sau:
- Cần có đội ngũ giáo viên, cấp dưỡng nhiệt tình, yêu nghề, có năng lực,
kiến thức trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Làm tốt công tác vận động, tuyên truyền về dinh dưỡng.
- Thực hiện tốt việc chăm sóc (nuôi) và dạy trẻ.
- Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục.
- Quản lý chặt chẽ công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong đơn vị.
Để thực hiện sáng kiến đạt hiệu quả bản thân tôi làm hiệu trưởng không trực
tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ nên mục tiêu giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thật khó, do
vậy các biện pháp tôi làm là:
*Chọn giáo viên dạy lớp bán trú:
Tôi chọn những giáo viên có năng lực nhiệt tình yêu nghề, chịu thương, chịu
khó cùng với một số giáo viên có con trong độ tuổi mẫu giáo như thế sẽ có lợi vì
họ đã tìm hiểu, nắm bắt cách nuôi dạy trẻ sâu sắc, khoa học. tôi phân công chủ
nhiệm, quán triệt về chức năng, nhiệm vụ của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ
năm học, nhiệm vụ trồng người mà Bác Hồ, Đảng, Nhà nước, toàn dân tin tưởng
giao phó.
*Thực hiện công tác vận động tuyên truyền về dinh dưỡng:
Nội dung đầu tiên tôi tuyên truyền với cha mẹ trẻ là dinh dưỡng. Phân tích
cho cha mẹ trẻ biết dinh dưỡng là nhu cầu sống hằng ngày của con người, người
lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc, trẻ em cần dinh dưỡng để phát
triển thể lực và trí lực hay nói cách khác dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và phát
triển của con người để từ đó cha mẹ trẻ quan tâm đến việc phòng chống suy dinh
dưỡng cho trẻ.
Tôi chọn các nội dung cho từng chủ đề để tuyên truyền vận động phụ huynh:
chăm sóc sức khỏe cho trẻ, lịch sinh hoạt của trẻ trong một ngày, lịch tiêm chủng,
vệ sinh cá nhân, vệ sinh trong ăn uống, mối liên quan giữa thực phẩm và bệnh tật,
biết giá trị dinh dưỡng của các loại thực phẩm thông thường sẵn có ở địa phương,
các nhóm thức ăn, cách chọn mua thực phẩm ,những điều cơ bản về vệ sinh an

4
toàn thực phẩm, tháp dinh dưỡng, nuôi con theo khoa học, mô hình cho con uống
sữa hằng ngày…trên bảng tuyên truyền của nhà trường, của lớp, trong các buổi
họp phụ huynh, khi đón trả trẻ, trong buổi tọa đàm với phụ huynh trẻ suy dinh
dưỡng.
*Thực hiện tốt công tác dạy và chăm sóc trẻ:
Đầu năm học tôi thống kê số liệu trẻ suy dinh dưỡng trong trường, nắm chắc
số liệu trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp bán trú cụ thể:
Tổng số trẻ ăn bán trú: 85
Trẻ ở kênh A: 72 trẻ tỷ lệ: 84%
Trẻ ở kênh B: 10 trẻ tỷ lệ: 11,76%
Trẻ ở kênh C: 3 trẻ tỷ lệ: 3,52%
Tôi tìm ra nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng: vì ăn uống thiếu chất (nhà
nghèo) và sự chăm sóc trẻ còn hạn chế từ đó tôi vạch ra kế hoạch trong công tác
giảng dạy và chăm sóc trẻ. Cụ thể:
Về giảng dạy:
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi là điều kiện để nâng
cao chất lượng dạy và học vì trẻ mẫu giáo học mà chơi – chơi mà học. do đó đầu
năm tôi vận động cha mẹ trẻ ủng hộ kinh phí để mua sắm trang thiết bị: bảng chức
năng, giá tạo hình, giá khăn, phương tiện nghe nhìn, đồ dùng, đồ chơi đầy đủ cho
trẻ.
Tổng số tiền phụ huynh đóng góp: 67.309.500đ
Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trên tiết học: tôi chỉ đạo cho giáo viên xây
dựng kế hoạch chăm sóc nuôi dưỡng trẻ phù hợp với độ tuổi, phù hợp với chủ đề.
Ví dụ: chủ đề bản thân: giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh trong ăn
uống, giới thiệu các món ăn cung cấp dinh dưỡng.
Tùy chủ đề mà giáo viên chọn đề tài để dạy trẻ: biết tên các loại thực phẩm , biết
được các nhóm thực phẩm giàu chất bột đường, nhóm thực phẩm giàu chất béo,
nhóm thực phẩm giàu chất đạm, nhóm thực phẩm giàu vitamin và muối khoáng…
Qua tiết học trẻ biết được công dụng của các loại thực phẩm, cách chế biến
các loại thực phẩm thành các món ăn đủ dinh dưỡng cho sức khỏe con người hằng
ngày. Nội dung các bài hát, bài thơ, câu đố, chuyện kể cung cấp thêm kiến thức về
dinh dưỡng, biết cách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho bản thân.
Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong giờ hoạt động ngoài trời: cho trẻ quan
sát, trò chuyện về những cây, con cung cấp thực phẩm, cung cấp dinh dưỡng cho
bữa ăn.
Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong giờ hoạt động góc: tôi đã tạo điều
kiện như duyệt kinh phí mua sắm thêm đồ chơi cho các lớp, khuyến khích giáo
viên làm thêm nhiều đồ chơi cho từng chủ đề, vận động phụ huynh ủng hộ đồ chơi
cho các lớp. bản thân tôi thường xuyên kiểm tra việc làm đồ dùng dạy học, đồ chơi

5
của giáo viên, chỉ đạo, dự giờ để theo dõi giáo viên lồng ghép giáo dục dinh dưỡng
vào các trò chơi ở các góc chơi đóng góp ý kiến bổ sung điều chỉnh kịp thời thiếu
sót: + Góc chơi học tập: chọn ra thực phẩm theo yêu cầu, phân loại các nhóm
thực phẩm qua tranh lôtô dinh dưỡng, giải câu đố về các loại thực phẩm (rau, củ,
quả,…).
+ Góc nghệ thuật: làm sách, vẽ, tô màu tranh các loại thực phẩm, nặn các
loại thực phẩm, hát, đóng kịch những bài hát như: Bắp cải xanh, Hoa kết trái,
chuyện: Củ cải trắng, Sự tích cây khoai lang…
+ Góc xây dựng: xây dựng vườn cây, cao cá, trang trại chăn nuôi,…
+ Góc phân vai: nấu các món ăn, bé làm nội trợ, đi siêu thị, quầy giải khát,
quầy bán hoa quả, các loại rau, quầy bán các món ăn (ẩm thực) được chế biến từ
các loại thực phẩm qua đó giáo dục trẻ biết mối liên quan giữa các loại thực phẩm
đối với sức khỏe con người, giúp trẻ biết ăn đủ 4 nhóm thực phẩm trong mỗi bữa
ăn, không kén ăn, không kiên khem, biết ăn hết suất, ăn uống hợp vệ sinh…
* Giáo dục sức khỏe cho trẻ:
+ Hằng ngày giáo viên đều theo dõi và giáo dục sức khỏe cho trẻ như dạy trẻ
giữ gìn vệ sinh thân thể áo quần sạch sẽ, biết chải tóc gọn gàng, biết dùng khăn,
bát, ca uống nước riêng, biết rửa tay khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, trước và sau
khi ăn…Đọc cho trẻ nghe những bài thơ, câu chuyện giáo dục bảo vệ sức khỏe.
+ Theo dõi thể lực trẻ trên biểu đồ hằng quý, hằng tháng để biết tiến triển
sức khỏe của trẻ trao đổi kịp thời với phụ huynh và có hướng điều chỉnh thực đơn,
cách chăm sóc trẻ.
+ Quan tâm đến trẻ sức khỏe yếu bằng cách phối hợp cách nuôi dạy con cho
các bậc cha mẹ trong các buổi họp cha mẹ trẻ theo định kỳ và những buổi tọa đàm
riêng đối với cha mẹ có trẻ suy dinh dưỡng trong giờ đón trả trẻ, trong cuộc họp
phụ nữ.
+ Tham mưu y tế xã khám sức khỏe định kỳ cho trẻ 2 lần/năm. Trao đổi với
một số cha mẹ trẻ khi phát hiện trẻ có dấu hiệu một số bệnh do y tế cung cấp thông
tin để điều trị kịp thời.
+ Thực hiện tốt bảo vệ môi trường và giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường:
Môi trường ảnh hưởng rất lớn trong việc bảo vệ sức khỏe cho trẻ nhất là trẻ học
bán trú. Nếu môi trường bị ô nhiễm sẽ gây nhiều mầm bệnh cho trẻ vì thế trong
năm học tôi đã mua sắm đầy đủ đồ dùng vệ sinh cho các lớp, chỉ đạo giáo viên
thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường, giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường như cho
trẻ xem tranh ảnh, kể cho trẻ nghe những câu chuyện, đọc những bài thơ nội dung
giáo dục trẻ biết giữ sạch môi trường, giáo viên đã dạy trẻ biết bỏ rác vào thùng rác
có nắp đậy, tuyên dương những trẻ biết giữ vệ sinh môi trường, động viên những
trẻ chưa thực hiện tốt phải làm theo gương tốt của bạn. Trong những giờ hoạt động

