
1
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ
TRƯỜNG MẦM NON KHÁNH THƯỢNG B
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi
sớm thích nghi với môi trường ở trường lớp mầm non”
Tên tác giả: Đinh Thị Thu Hường
Đơn vị công tác: Trường MN Khánh Thượng B
Chức vụ: Giáo viên
NĂM HỌC: 2024 – 2025

2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
MỤC LỤC
TRANG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1. Tính cấp thiết cần phải tiến hành sáng kiến
1
2. Mục tiêu của đề tài, sáng kiến
2
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
1. Hiện trạng vấn đề
3
2. Giải pháp thực hiện sáng kiến
5
Biện pháp 1: Cô giáo là người bạn đáng tin cậy của trẻ.
5
Biện pháp 2: Tạo môi trường gần gũi, thân thiện.
7
Biện pháp 3: Tận dụng môi trường thiên nhiên, tổ chức hoạt động
ngoài trời để thu hút trẻ.
10
Biện pháp 4: Thay đổi hình thức trong các hoạt động.
12
Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh.
13
3. Kết quả đạt được sau khi thực hiện đề tài
14
4. Hiệu quả của sáng kiến
16
4.1: Hiệu quả về khoa học
17
4.2: Hiệu quả về kinh tế
17
4.3: Hiệu quả xã hội
17
5. Tính khả thi
17
6. Thời gian thực hiện sáng kiến
18
7. Kinh phí thực hiện sáng kiến
18
III. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
18
IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO
20

3
TÊN ĐỀ TÀI: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi sớm thích nghi với môi
trường ở trường lớp mầm non”.
1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến
Mầm non là bậc học đầu tiên với mỗi đứa trẻ. Cô giáo mầm non là người đầu tiên
và quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách tâm lý cho trẻ. Cô giáo mầm non giữ vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn, người hợp tác cùng trẻ, giúp đỡ trẻ để trẻ có cơ hội hòa
nhập với cuộc sống. Cô giáo chính là điểm tựa của trẻ, là người khai thác tiềm năng vốn
có ở trẻ để nâng sự phát triển của trẻ giúp nhân cách của trẻ được phát triển toàn diện.
Như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ người giáo
viên luôn phải tìm tòi học hỏi, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tận
tâm tận lực cho công tác chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ trên hết là người giáo viên phải
có cả tâm lẫn đức.
Đối với trẻ mầm non, việc chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ những ngày đầu đến
trường phải thật nhẹ nhàng phải mang đến cho trẻ một tâm thế thật thoải mái, học bằng
chơi, chơi mà học, trẻ phải thật yêu thích trường lớp, từ đó tạo tiền đề cho trẻ phát triển
ở những bậc học tiếp theo. Khi đã mang lại kết quả như mong đợi thì việc chăm sóc giáo
dục trẻ sẽ đạt được những thành công nhất định. Mỗi năm đối tượng các trẻ khác nhau
và cách làm quen của giáo viên đối với trẻ cũng khác nhau.
Trẻ ở tuổi mầm non đặc biệt là lứa tuổi 24 - 36 tháng là giai đoạn vô cùng quan trọng
để tạo cho trẻ những vốn sống ban đầu. Đây là giai đoạn khó khăn nhất trong việc hình
thành và phát triển của trẻ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên phải từng bước đưa trẻ thích
nghi và hoà nhập vào môi trường giáo dục mầm non.
Vì vậy tôi luôn tìm tòi, sáng tạo phương pháp mới để dạy trẻ sớm thích nghi với
trường mầm non. Phương pháp mới này sẽ gây được nhiều sự hứng thú và sáng tạo của
trẻ, để từ đó trẻ ham thích đi học, thích đến lớp vui chơi với các bạn, yêu cô giáo, phụ
huynh yên tâm, vui vẻ gửỉ con cho cô giáo ở trường.
Mặt khác, trẻ 24 - 36 tháng tuổi non nớt đang quen được bao bọc trong môi trường
của gia đình. Các mối quan hệ của trẻ chủ yếu là những người thân trong gia đình. Trẻ
vẫn còn lạ lẫm với thế giới xung quanh. Vì vậy, lần đầu đến lớp sẽ cảm thấy sợ sệt, lo
sợ, tất cả trở nên hoàn toàn mới lạ. Môi trường mới, lớp mới, cô giáo mới, bạn bè mới.
Thêm nữa trẻ bị đưa vào một không gian mới với các quy tắc phải thực hiện nếp ăn, ngủ,
vệ sinh, sinh hoạt ở lớp, trẻ cảm thấy bị bất ngờ chưa thể thích nghi được ngay. Mỗỉ
cháu có 1 tính cách khác nhau, có những trẻ ít nói, nhút nhát, có trẻ hiếu động, có trẻ rất

4
dễ hòa đồng, nhanh thích nghi. Nhưng đa số các cháu lần đầu tiên đến lớp mầm non còn
nhiều ngỡ ngàng: lạ các cô, lạ các bạn, thấy lạ môi trường lớp học khi phải rời xa vòng
tay âu yếm của người thân. Tôi đã từng chứng kiến có những cháu đi lớp hết học kỳ I
vẫn chưa quen lớp học, hoặc có những cháu cứ đi học vài ba buổi là sốt. Mỗi năm đối
tượng các cháu khác nhau và cách làm quen cũng khác nhau.
Bản thân tôi đã tự nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy trẻ sớm thích nghi
với trường lớp mầm non. Xuất phát từ nhận thức đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một
số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi sớm thích nghi với môi trường ở trường lớp
mầm non”
2. Mục tiêu của đề tài sáng kiến
- Đối với trẻ:
Giúp trẻ sớm thích nghi với môi trường lớp học tại trường mầm non, giúp đỡ trẻ
hòa nhập với cuộc sống tập thể, giúp đỡ trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tư duy, ngôn ngữ, tình
cảm xã hội, thẩm mĩ góp phần hình thành cho trẻ những tâm lý, những cơ sở ban đầu nhân
cách năng lực làm người của trẻ, giúp trẻ mới đến lớp không sợ sệt và thích đi học để
các bậc phụ huynh an tâm trong những ngày đầu tiên con mình xa bố mẹ. Từ đó tạo sự
hứng thú, sự phát triển tư duy qua các hoạt động của trẻ đi vào nề nếp thói quen giúp trẻ phát
triển khă năng, năng lực cá nhân, khắc phục những hạn chế, phát huy tối đa những mặt mạnh
của trẻ.
- Đối với giáo viên:
Giáo viên linh hoạt, sáng tạo và thường xuyên hơn trong việc làm và tìm các
phương pháp tích cực đưa vào các hoạt động từ đó sẽ kích thích được sự hứng thú
của trẻ khi tham gia hoạt động, nhằm nâng cao khả năng thích nghi của trẻ ở trường
lớp mầm non tại nhóm trẻ mình phụ trách.
- Đối với phụ huynh:
Phụ huynh có ý thức và trách nhiệm cao hơn về việc phối hợp với nhà
trường chăm sóc, vui chơi cùng con em mình tại nhà và tích cực đưa con đến lớp
đều đặn tạo môi trường gáo dục ở nhà giống ở trường.
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Thời gian nghiên cứu:
+ Từ tháng 9/2024 đến tháng 10/2024: Xây dựng đề cương nghiên cứu
+ Từ tháng 10/2024 đến tháng 11/2024: Nghiên cứu đề tài

5
+ Từ tháng 12/2024 đến tháng 3/2025: Viết đề tài
+ Từ tháng 3/2025 đến tháng 4/ 2025: Hoàn thiện đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
+ Đối tượng: Trẻ Nhà trẻ D3. Trường Mầm non Khánh Thượng B.
+ Số lượng trẻ: 4 (Trong đó số Nữ: 4 trẻ)
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Đề tài được thực hiện áp dụng tại lớp NTD3. Trường mầm non Khánh Thượng
B nơi tôi đang công tác.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Hiện trạng vấn đề
Ở lứa tuổi 24 - 36 tháng tuổi trẻ còn nhỏ, sức đề kháng kém nên hay ốm.
Tâm lý trẻ chưa ổn định. Ở độ tuổi này cơ thể non nớt, có trẻ thì thích đến lớp vì
nhiều đồ chơi mới, có trẻ sợ hoặc lo lắng khi gặp nhiều bạn mới, cô mới, sợ đi
học... Với trẻ 24 - 36 tháng tuổi việc rời xa bố mẹ để đến lớp hằng ngày với trẻ là
một điều mới lạ, rất khó khăn, chưa thành thói quen của trẻ. Cháu nhà trẻ bước
đầu rời xa vòng tay cha mẹ, đến với một môi trường mới với những người mà bé
chưa từng gặp. Chưa có nề nếp trong mọi hoạt động, trẻ nhút nhát, sợ sệt, có
thái độ không ăn, không ngủ, hay thậm chí có những trẻ quá sợ hãi mà khóc
lóc, chạy chốn khỏi lớp...Những lý do trên dẫn đến hiện tượng trẻ chưa thích nghi
với môi trường lớp học tại trường mầm non.
Trong năm học 2024 - 2025 tôi được phân công chủ nhiệm lớp Nhà trẻ D3,
trong đó có 4 trẻ. Tất cả 4 trẻ đều là nữ. Đa số gia đình làm nghề nông dân và đi
làm ăn xa, nên còn gặp một số ưu điểm và nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
- Trường Mầm non nơi tôi công tác đã đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 từ tháng 11
năm 2023. Chính vì thế nhà trường đảm bảo về cơ sở vật chất, có đầy đủ các hệ thống
phòng học theo quy định. Lớp học rộng rãi, thoáng mát đầy đủ trang thiết bị phục vụ
cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho công tác chuyên môn trong nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ năm học. Chỉ đạo sát
sao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
chuyên môn, và định hướng, kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục, hoạt động chuyên
đề, ngoại khóa…