
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô
cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó”.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm
Non nói riêng thì ngôn ngữ đóng một vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ là công cụ
để tư duy, là phương tiện để giao tiếp giúp con người thể hiện sự hiểu biết về thế
giới xung quanh. Ngôn ngữ nói rất quan trọng, đặc biệt đối với trẻ mầm non lại
càng quan trọng hơn, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người
xung quanh.
Độ tuổi 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn phát triển rất phong phú của trẻ trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, từ nhận thức, hoạt động chủ đạo, ý thức bản thân và đặc
biệt là ngôn ngữ. Bởi phát triển ngôn ngữ của trẻ giai đoạn 24 - 36 tháng tuổi là nền
tảng để kích hoạt toàn diện não bộ: Khả năng quan sát, ghi nhớ, tập trung... là tiền
đề vững chắc cho sự thành công trong tương lai của trẻ.
Trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi đã tiếp nhận khá nhiều vốn từ vựng và biết sử dụng
chúng để tạo thành các ngữ câu để giao tiếp với mọi người xung quanh. Vốn từ của
trẻ phát triển theo giai đoạn, trong đó giai đoạn trẻ 24 - 36 tháng vốn từ của trẻ có
khoảng 243 - 486 từ (danh từ và động từ chiếm tỷ lệ nhiều). Trẻ học được nhiều từ
mới bằng cách lắng nghe người thân, bố mẹ, ông bà hay những người khác trò
chuyện. Trẻ bắt đầu thể hiện sự quan tâm của mình nhiều hơn thông qua giao tiếp
với mọi người.
Nhưng hai năm vừa qua do dịch Covid - 19 kéo dài, lây lan rộng trên khắp
địa bàn cả nước và trên thế giới. Nó đã làm thiệt hại biết bao tiền của và đã cướp đi
hàng triệu sinh mạng con người. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương và có nguy
cơ lây nhiễm cao nhất vì vậy trẻ không được giao tiếp với mọi người xung quanh.
Trong đại dịch Covid - 19, trẻ phải giãn cách ở nhà không được đến trường và tiếp
xúc với thiết bị điện tử nhiều hơn. Tiến sĩ Heuvel, bệnh viện Nhi tại Canada đã
nghiên cứu và đưa ra kết luận: những thiết bị điện tử có thể liên quan đến khoảng
50% nguy cơ chậm nói và ít giao tiếp ở trẻ. Sử dụng các thiết bị điện tử quá nhiều
sẽ khiến trẻ không có nhu cầu tương tác với người khác. Trẻ có thể sẽ thu mình,
ngại nói, ngại tiếp xúc dẫn tới dẫn tới phát triển ngôn ngữ chậm, thậm chí chậm
nói. Điều này đã gây trở ngại rất lớn khi trẻ đến trường: Trẻ sợ người lạ, không
thích giao tiếp, vốn từ ít…
Là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ là việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết. Đầu năm học này tôi thấy trẻ lớp tôi khi đến
lớp có nhiều trẻ nhút nhát, trẻ chậm nói, hạn chế về vốn từ, phát âm không rõ

2
tiếng….Vì thế trẻ cần được dạy nói và nói nhiều mới có khả năng nói rõ ràng mạch
lạc, rõ tiếng, nói đủ câu để trẻ tự tin giao tiếp với mọi người xung quanh và tự tin
tham gia vào các hoạt động nơi đông người. Từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài:
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại trường mầm
non”. Nhằm mục đích giúp trẻ lớp tôi có thể phát âm rõ ràng, diễn đạt đủ câu, làm
giàu vốn từ cho trẻ một cách tốt nhất.
* Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đưa ra các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tại
trường mầm non.
Thông qua việc hình thành, phát triển và tích luỹ, mở rộng vốn từ phong
phú, giúp trẻ phát âm đúng và diễn đạt ngôn ngữ một cách mạch lạc.
* Đối tượng nghiên cứu:
Trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại trường mầm non.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra khảo sát.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp đàm thoại.
Phương pháp học tập, nghiên cứu.
* Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 09/2022 đến tháng 04/2023.
* Phạm vi nghiên cứu:
Trường mầm non A xã Liên Ninh.

3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ
Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu
được. Đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh
hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với
cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn
của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi
người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó.
Với trẻ em, ngôn ngữ không chỉ là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của
tư duy, là phương tiện hữu hiệu nhất giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mà
ngôn ngữ còn có vai trò rất lớn trong việc hình thành, điều chỉnh hành vi và giáo
dục cho trẻ những tình cảm thẩm mĩ cao đẹp ngay từ những năm tháng đầu tiên của
cuộc đời.
Có thể nói, một trong những thành quả quý giá mà trẻ đạt được ở giai đoạn
24 - 36 tháng tuổi chính là ngôn ngữ. Ở năm đầu tiên, ngôn ngữ của trẻ mang tính
“phi xã hội” mà người lớn ít hiểu được. Đó là những tiếng phát ra một cách bản
năng do các xung lực 2 thần kinh tạo ra. Dần dần bộ não của trẻ phát triển, cơ quan
cấu âm được hoàn thiện và nhờ luyện tập theo cách dạy của người lớn mà trẻ đã bắt
đầu biết nói. Từ việc nghe người lớn nói, trẻ bắt chước, nhắc lại đến chỗ trẻ biết
quan sát việc dùng từ gắn với từng ngữ cảnh để kết hợp các từ với nhau tạo thành
những câu mạch lạc. Theo năm tháng, vốn từ vựng của trẻ được hình thành và ngày
càng mở rộng để thực hiện các chức năng giao tiếp, tư duy.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Đặc điểm chung:
Trường mầm non nơi tôi làm việc là một xã ngoại thành Hà Nội. Nhiều năm liền
đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp Huyện, luôn giữ vững danh hiệu: “Trường học
thân thiện - Học sinh tích cực”. Trường được công nhận là trường chuẩn mức độ II
vào tháng 3 năm 2022. Trường học được xây dựng khang trang, có khung cảnh sư
phạm, môi trường sạch đẹp, trồng nhiều các loại hoa và cây xanh, được đầu tư
nhiều trang thiết bị dạy học, nhiều đồ chơi ngoài trời, phân khu hợp lí và luôn đảm
bảo là ngôi trường xanh - sạch - đẹp.
Năm học 2022 - 2023 nhà trường phân công tôi dạy lớp nhà trẻ D2 lứa tuổi 24 - 36
tháng. Với tổng số trẻ là: 22 trẻ, trong đó có 15 cháu nam và 7 cháu nữ. Lớp có 2
cô với trình độ đại học sư phạm và tinh thần luôn học hỏi, nhiệt tình yêu nghề mến

4
trẻ. Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tôi thấy có một số
thuận lợi và khó khăn sau:
2. Thuận lợi:
Trong quá trình tôi được dạy lớp D2 lứa tuổi 24 - 36 tháng bản thân tôi nhận
được nhiều sự quan tâm, tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường. Sự giúp đỡ
nhiệt tình của đồng nghiệp, chị em trong khối Nhà trẻ.
Phòng học đủ diện tích theo quy định, sạch sẽ, thoáng mát.
Đồ dùng, đồ chơi phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ,
thuận lợi cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trẻ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, được học đúng độ tuổi.
Trẻ thích nghe cô kể chuyện, đọc thơ, đồng giao, ca dao, tục ngữ…
Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung
cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Giáo viên trong lớp có kinh nghiệm trong việc chăm sóc, rèn nếp cho trẻ và
nhiệt tình trong công tác.
Bản thân tôi đã có hơn 8 năm kinh nghiệm giảng dạy. Được tham gia học tập
cũng như kiến tập nhiều chuyên đề về phát triển ngôn ngữ.
Phụ huynh nhiệt tình trong việc trao đổi, phối kết hợp với tôi trong việc giáo
dục ngôn ngữ cho trẻ.
3. Khó khăn:
Trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, đặc biệt là thời gian nghỉ dịch Covid -
19 dài trẻ tiếp xúc với tivi và điện thoại nhiều, trẻ không được đi chơi cũng như tiếp
xúc nhiều với bạn bè và mọi người xung quanh làm gia tăng tỷ lệ trẻ chậm nói, rối
loạn và chậm phát triển ngôn ngữ.
Các cháu mới đi học còn khóc nhiều, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt
của lớp.
Lớp có nhiều cháu nam nên nghịch nhiều, khả năng chú ý của trẻ chưa đồng
đều, trẻ nhanh chán nhanh quên.
Trẻ phát âm chưa rõ ràng, còn nói ngọng nhiều.
Giáo viên chỉ chú trọng tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở hoạt động có
chủ đích mà chưa chú trọng tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Còn nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ. Còn ỷ lại vào sự chăm sóc, dạy
dỗ của giáo viên. Chưa dành nhiều thời gian chơi, dạy trẻ nói và giao lưu với trẻ.
Đầu năm học tôi đã khảo sát phân loại khả năng ngôn ngữ của trẻ thể hiện
qua số liệu sau:

5
Bảng so sánh đối chiếu trước khi thực hiện đề tài:
(Tổng số trẻ tham gia 22/22 = 100%)
Qua quá trình khảo sát sự phát triển ngôn ngữ ở trên đối với trẻ 24 - 36
tháng, tôi nhận thấy đa số trẻ còn hạn chế về ngôn ngữ nên bản thân tôi đã học hỏi,
nghiên cứu và tìm ra những giải pháp hấp dẫn để trẻ phát triển ngôn ngữ một cách
tốt nhất.
III. Các biện pháp.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, có khoa học nhằm
cung cấp, làm giàu vốn từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ, củng cố và tích
cực hoá vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động
giao tiếp. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số
biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau:
1. Biện pháp 1: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có
chủ đích.
Trong giờ hoạt động chơi tập có chủ đích, hoạt động nào cũng giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ. Tuy nhiên với các hoạt động học như: Hoạt động nhận biết, hoạt
động văn học, hoạt động âm nhạc… Là những hoạt động giúp trẻ phát triển vốn từ
nhanh và diễn đạt câu rõ ràng, mạch lạc nhất.
Hoạt động nhận biết: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn
ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Hoạt động này giúp trẻ nhận biết những đặc
STT Nội dung khảo sát Trẻ đạt Trẻ chưa đạt
Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ
1
Vốn từ 12 55% 10 45%
2
Trả lời các câu hỏi: “Ai đây?”, “Cái
gì đây?”, “…làm gì?”, “...thế nào?”
(MT 23)
10 45% 12 55%
3Khả năng phát âm rõ tiếng (MT25) 9 41% 13 59%
4
Đọc được bài thơ, ca dao, đồng dao
với sự giúp đỡ của cô giáo (MT 26) 10 45% 12 55%
5Nói được câu đơn (MT 27) 10 45% 12 55%