Đề Tài
"Biện pháp nâng cao hiệu quả thu nộp
quỹ BHXH Việt Nam"
1
LỜI MỞ ĐẦU
Như mọi quốc gia trên thế giới, BHXH Việt Nam trong những
năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà
nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà
nước; điều này có thể dễ dàng lý giải bởi BHXH không chỉ liên
quan đến hàng triệu lao động mà còn bởi nó có ý nghĩa rất lớn đối
với cả những người phụ thuộc vào các đối tượng trên. BHXH
chẳng những có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa
nhân đạo sâu sắc, chính sách này thể hiện trình độ văn minh, tiềm
lực kinh tế và khả năng tổ chức quản lý của Nhà nước.
Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì
việc bao cấp toàn bộ cho hoạt động BHXH tỏ ra không còn phù
hợp với tình hình mới. Để từng bước đổi mới công tác tổ chức
quản lý BHXH, chính phủ đã ra Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995
về việc ban hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày
16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam và các quyết định
khác kèm theo về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của
BHXH Việt Nam. Với mục đích thống nhất việc quản lý và thực
hiện các chế độ BHXH nhằm đảm bảo tốt hơn lợi ích của người
lao động thì BHXH Việt Nam đã được thành lập trên cơ sở thống
nhất các tổ chức BHXH ở trung ương và địa phương thuộc hệ
thống Bộ Lao động - TB&XH và Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam nhằm giúp Thủ tướng chính phủ chỉ đạo công tác quản lý
quỹ BHXH và thực hiện chế độ chính sách BHXH theo pháp luật
hiện hành. Và để giải quyết tốt vấn đề trên đảm bảo nguồn quỹ chi
trả các chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng trợ cấp
BHXH thì việc nâng cao hiệu quả thu quỹ đồng thời duy trì và
2
phát triển nguồn quỹ là đòi hỏi bức bách khiến em đi đến lựa chọn
nghiên cứu đề tài: "Biện pháp nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ
BHXH Việt Nam"
Những nội dung chính của đề tài:
Lời mở đầu
Phần I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH
Phần II. Thực trạng công tác thu nộp quỹ BHXH Việt Nam
trong thời gian qua.
Phần III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp
quỹ BHXH
Lời kết
Mặc dù em đã rất cố gắng nghiên cứu nhưng do trình độ và
kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các
thầy cô giáo và các bạn
Em xin chân thành cảm ơn ./.
Hà Nội, ngày 4 tháng 11 năm 2000
Tác giả
Nông Hữu Tùng
3
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BHXH
1. Sự tồn tại khách quan của BHXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc,
ở và đi lại v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta
phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm
được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy
đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc
thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người
phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực
tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy
đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có
rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát
sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều
kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn
trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động
và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v... Khi rơi vào những
trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì
thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện
thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chứa bệnh và điều
trị ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc
nuôi dưỡng v.v... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con
người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều
cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội
bộ công đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà
nước v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và
không chắc chắn.
4
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân
công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao
động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người
làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu
cu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản v.v...
Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và
người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi
xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn
mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới
thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu
tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt
đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra
can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm
tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và
giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được
tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với
người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn
được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo
đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.
Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của
người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và
gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy
mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn
quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng.
Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm
bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc
chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao
động. Như vậy BHXH ra đời và phát triển là một tất yếu khách
5
quan và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc
gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết tham gia
BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao động và
được thừa nhận là nhu cầu tất yếu khách quan.
2. Quá trình phát triển của BHXH
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển chính sách về
BHXH trên thế giới
BHXH đã có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính
xã hội từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm được
hình thành ở Anh vào năm 1819 với tên gọi "Luật nhà máy" và tập
trung vào bảo hiểm cho người lao động làm việc trong các xưởng
thợ. Vào năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau hình thành ở Đức. Cũng
tại Đức, một số các luật khác được hình thành, sau đó chẳng hạn
luật tai nạn lao động hình thành năm 1884; luật bảo hiểm người
già và tàn tật do lao động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH
được thực hiện trên rất nhiều nước và trở thành một bộ phận quan
trọng trong hoạt động của Liên hợp quốc. Một tổ chức quốc tế lớn
nhất thế giới hiện nay. Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông
qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có ghi: "Tất cả mọi người, với tư
cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng BHXH. Quyền đó
đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá
cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người".. Để thể chế
hoá tinh thần đó, tổ chức lao động quốc tế ILO (một tổ chức cơ cấu trong liên hợp quốc) đã đưa ra Công ước 102 quy định về tiêu
chuẩn tối thiểu của BHXH và những khuyến nghị các nước thành
viên về việc thực hiện các tiêu chuẩn này.
2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển chính sách
BHXH ở Việt Nam
Như ở phần trên, BHXH phát triển gắn liền với sự phát triển
của nền kinh tế hàng hoá, ở Việt Nam trong gần một thế kỷ cai
trị, bọn thực dân Pháp hầu như không đề ra được những gì để bảo
vệ các quyền cơ bản của con người. Không thực hiện được chế độ
6
chính sách về BHXH đối với người lao động Việt Nam. Ngay sau
cách mạng tháng 8 thành công trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt
các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu
trí cho công nhân viên chức Nhà nước (có Sắc lệnh 29/SL ngày
12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL
ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể
hiện trong Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước ta
đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH.
Quyền này được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối
với công nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định
218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành
kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Suốt
trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách
BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc
sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp
phần rất lớn trong việc động viên sức người sức của cho thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường. Sự thay đổi về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi
tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH
nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: "Nhà nước thực hiện
chế độ BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn
lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với
người lao động". Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách BHXH theo
hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách
quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ VIII cũng đã nêu lên "Mở rộng chế độ BHXH đối với
người lao động thuộc các thành phần kinh tế". Như vậy, các văn
7
bản trên của Đảng và Nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị
trường. Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày
1/1/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP ngày
26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối với người lao động trong các
thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ này góp phần thực
hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần thực hiện
công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị
trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của
đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả
nước.
II. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA BHXH
1. Khái niệm BHXH
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan
trọng của Đảng và Nhà nước. Chính sách BHXH đã được thể chế
hoá và thực hiện theo Luật. BHXH là sự chia sẻ rủi ro và các
nguồn quỹ nhằm bảo vệ người lao động khi họ không còn khả
năng làm việc.
"Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản
thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động
hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình
thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của
người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an
toàn xã hội". Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu
nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người
lao động tham gia BHXH.
Đồi tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử
dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế – xã hội
8
cuả mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận
những người lao động nào đó.
Dưới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định
bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà
nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết
tuổi lao động theo quy định của pháp luật, hoặc chết.
Quỹ bảo hiểm xã hội dành chi trả các chế độ trợ cấp và quản
lý phí được hình thành từ đóng góp của người lao động, chủ sử
dụng lao động và nguồn hỗ trợ của Nhà nước.
Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ để tồn tại và phát triển.
Mục đích chính của các chế độ BHXH là trợ cấp vật chất cho
người bảo hiểm khi gặp rủi ro đã được quy định trong luật.
2. Những nguyên tắc của BHXH
2.1. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để người lao động có
thể duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời
(ốm đau, thai sản, tai nạn lao động v.v... ).
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm.
Nó vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước hết là sự bảo đảm bằng vật chất (qua các chế
độ BHXH). Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hưởng
đến sự phát triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên
tắc này, BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực
tế có thu nhập là cơ số để bảo đảm cho quãng đời không tham gia
vào lao động (mất sức lao động hay cao tuổi).
2.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời
gian mức đóng bảo hiểm v.v...). Như vậy, Nhà nước đóng vai trò
9
tổ chức, định hướng để người lao động và người sử dụng lao động
hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan
hệ về BHXH. Điều này được thể chế hoá trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý
nghĩa khuyến khích mức tham gia, các loạI hình và chế độ bảo
hiểm, mà người lao động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển
của hệ thống BHXH của một số nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều kiện để phát triển
và mở rộng hơn.
2.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên
quan đến việc thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng
chế độ BHXH. Mức tối thiểu của các chế độ BHXH là mức đóng
định kỳ (hàng tháng), mức thời gian tối thiểu để tham gia và được
hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết
kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu, tiền lương bình quân,
quảng đời lao động v.v... Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính
đến giá trị của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng.
Nguyên tắc này liên quan trức tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng
quỹ BHXH, và khuyến khích người lao động và các tầng lớp xã
hội tham gia.
2.4. BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức
tham gia và thời gian thức hiện, đảm bảo quyền lợi của người
lao động
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ
chế thị trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có
thể xảy ra, thậm trí mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơI làm
việc và thay đổi hợp đồng lao động cả vể nội dung đối, tác v.v…
tạo ra những giai đoạn có thể vệ thời gian và không gian của quá
trình làm việc. Điều này có thể xảy ra trong cả các quan hệ về
BHXH. Việc đảm bảo cho người tham gia BHXH có thể duy trì
quan hệ một cách liên tục theo thời gian có tham gia và thống
10
nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận tiên
cho người lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy
đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và thời gian thực tế
tham gia là căn cứ chủ yếu nhất đẻ duy trì quan hệ BHXH đối với
người lao động.
2.5. Công bằng trong BHXH
Đây là nguyên tắc rất quan trọng songcũng rất phức tạp trong
chính sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiên trong một thời
gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó
có thể có sự thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia của từng
người và mức hưởng lương của họ cũng có thể không giống nhau.
Việc theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản nhất là
trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt
về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay.
Do vậy đảm bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất
khó đảm bảo tính tuyệt đối .
Sự công bằng, trước hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa
đóng góp và được hưởng. Điều này được thể hiên trong nội dung
và điều kiên tham gia trong từng chế độ về BHXH. Xét trên góc
độ khác, công bằng còn đặt trongcác quan hệ xã hội giữa những
người tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa
bàn, ngành nghề khác nhau v.v… dựa trên nguyên tắc tính xã hội
của bảo hiểm.
Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kếvà
thực hiện các quan hệ và các chế độ về BHXH.
3. Bản chất của BHXH
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu
sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã
hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ
chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến
11
một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa
dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của
BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi
nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên
BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là
người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao
động. Bên BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được
BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý
muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra
không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v.... Đồng
thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi
gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ
một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này
do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự
hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết
yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu
nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc
tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để
đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.
12
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư
và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong
những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa
nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng:
"Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn
các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và
sự tự do phát triển con người".
Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách
bảo đảm xã hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có
cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu
nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên trong
xãhội, trong nhưng trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói,
khôngđủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thânvà gia
đình. Sự giúp đỡ này dược thể hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng
của Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đíng góp của các tổ chức
xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về cả vật chất và tinh
thần của Nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với
những người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã
hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sỹ và thân
nhân liệt sỹ, thương binh,bệnh binh v.v... đều là những đối tượng
được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội
tuyệt nhiên không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính
sách xã hội có mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng
cố thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo
sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi,
song BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội đều là những chính
13
sách xã hội không thể thiếu được trong một quốc gia. Những
chính sách này luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đề
góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
4. Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao
động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động
theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất
khả năng lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức
hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời
hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản
nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ
chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những
người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao
động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều
phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một
số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số
lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông
bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều
dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có
thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc
với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v... Thực hiện chức
năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản
xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động
xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động
14
được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp
thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia
đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người
lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm
việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một
đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao
động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao
động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản
xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những
mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian
lao động v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được
điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có
BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu
nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và
xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả
nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người
lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh
tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
5. Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Như ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản
xuất người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người
sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không cảm
như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng lao
động và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v...
Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và
15
những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở
nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng căng
thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp
thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính
khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo
thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội
dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai,
đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH.
Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian
đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động v.v...
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời
còn có tính dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn được
hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các
bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục
đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể
dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại cuả tập hợp người lao động
tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người
lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp
của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận
được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động
việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người
lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có
lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang thải cho
những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với
Nhà nước BHXH góp phầm làm giảm gánh nặng cho ngân sách
đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc
dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì
vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ nét. Xét về lâu dài, mọi
16
người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. V à
ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao
động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động.
Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi
nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính
chất xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao.
6. Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, Các nước đều phải lựa chọn hình thức,
cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tạp
quán, khả năng trang trải và đình hướng phát triển kinh tế - xã hội
của nước mình. Đồng thời, phải nhận thức thống nhất các quan
điểm về BHXH sau đây:
6.1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ
phần quan trọng nhất trong chính sách BHXH
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm
hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách và
xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong những
loại chính sách đối với người lao động nhằm đáp ứng một trong
những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người , nhu cầu an
toàn về việc làm,an toàn lao động,an toàn xã hội v.v... Chính sách
BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh
tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một
chừng mực nhất định,nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ
xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động
lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
6.2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
BHXH cho người lao động
17
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh
nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa
vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện các chế
độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật
pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn định sản xuất
kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có thiết bị hiện
đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống
cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm
việc bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ. Khi họ gặp
rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v.v... trong
đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động với những
điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách
nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên
tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ
thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh
tế cho doanh nghiệp.
6.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp v.v...
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều
được hưởng BHXH như tuyên ngôn dân quyền đã nêu,đồng thời
bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH.
Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải
hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là
rủi ro của bản thân. Vì thế, muốn được BHXH tức là muốn nhiều
người khác hỗ trợ cho mìnhlà dàn trải rủi ro của mình cho nhiều
người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều
đó có nghĩa là người lao động phải có trách nhiệm tham gia
BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về
BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối
18
quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham
gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.
6.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lương lúc đang đi làm
- Tuổi thọ bình quan của người lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc trợ cấp BHXH phải thấp hơn lúc
đang đi làm, nhưng thấp hơn cũng phải đảm bảo mức sống tối
thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa
phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người
lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế
tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những công
việc hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ người lao
động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực
hiện được nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn
hay tuổi già không làm việc được mà trước đó có tham gia BHXH
thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương
do lao động tao ra được. Mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền
lương thì không một người lao động nào phải có gắng tìm kiếm
việc làm và tích cực làm việc để có lương, mà ngược lại sẽ lợi
dụng BHXH để được nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ BHXH
theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp
BHXH bằng lúc đang làm việc. Và như vậy thì chẳng khác gì
người lao động bị rủi ro và qua rủi ro của mình dàn trải hết cho
những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương
lúc đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phương thức
19
BHXH thì mức trợ cấp thấp hơn cũng không thể thấp hơn mức
sống tối thiểu.
6.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức
bộ máy thực hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phần cấu thành các chính sách xã
hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển
kinh tế - xã hội. Cho nên, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng.
Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, nếu
không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì
bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ
việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp
v.v... Vì vậy, Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có
những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, phải khảng định rằng việc hoạch định chính sách
BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà
nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các
văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà
nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có
những mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà
nước cung cấp thì vai trò quản lý Nhà nước là trực tiếp và toàn
diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử dụng lao động,
người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia
quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu
như luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước
20
trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao
cho Bộ Lao động hoặc bộ xã hội trực tiếp điều hành.
III. QUỸ BHXH
1. Khái niệm
Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia vào điều kiện lịch
sử trong thời kỳ nhất định của đất nước. Trình độ kinh tế - xã hội
càng phát triển thì các chế độ BHXH dược áp dụng càng mở rộng,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được
nâng cao và khi kinh tế phát triển,người lao động có thu nhập cao,
càng có điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài
chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn
tại và gắn với mục đích bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao
động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ
lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Như
vậy, Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài
Ngân sách Nhà nước.
2. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn khác như: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng
hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi...
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp
BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng
lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này
không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về
phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho
21
người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà
mình thuê mướn. Đồng thời nó góp phần giảm bớt tình trạng tranh
chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía
người lao động, đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu
hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý
nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ
lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao
động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà
nước. Trước hết là các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những
chuẩn mực pháp lý cho cả người lao động và người sử dụng lao
động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh
vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng
nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà
nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH,
mà còn chở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc
chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình
thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và
mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và
người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm
thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương và quỹ lương của
cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ
vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử
dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao
động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ
còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng
22
góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định,
Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản
lý BHXH v.v...
Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
Tỷ lệ đóng góp của
Tỷ lệ đóng góp
người lao động so
của người sử
Tên nước
Chính phủ
với tiền lương (%)
dụng lao động so
với quỹ lương
(%)
CHLB Đức
Bù thiếu
14,8 18,8
16,3 22,6
11,82
19,68
CH Pháp
Bù thiếu
3,0
6,5
Inđônêxia
Bù thiếu
Philip in
Bù thiếu
2,85 9,25
6,85 8,05
12,75
Malaixia
Chi toàn b ộ chế độ
9,5
ốm đau, thai sản
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Mức đóng góp BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi
quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán trên cơ sở khoa
học. Trong thực tế, việc xác định mức đóng góp BHXH là một
nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các
phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi xác định mức
đóng góp BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp
BHXH, từ đó có cơ sở để xác định mức đóng góp.
- Quy định mức đóng góp BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác
định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định
được mức đóng góp.
Mặc dù chỉ thuần tuý mamg tính kỹ thuật nhưng xác định mức
đóng góp BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan tới cả người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả
năng cân đối thu nhập của người lao động và kiều kiện phát triển
23
kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định mức đóng
góp BHXH vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số
đông bù số ít và có dự phòng. Mức đóng góp xác định phải được
cân đối với mức hưởng, với nhu cấu BHXH và điều chỉnh sao cho
tối ưu nhất.
Mức đóng góp BHXH được cấu thành từ 3 bộ phận và được
xác định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó: P - Mức đóng góp BHXH
f1- Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Đóng góp dự phòng
f3- Đóng góp quản lý
Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn
hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và
hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường là 1 năm) như:
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ... Vì vậy, số đóng góp
BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế
độ BHXH dài hạn như: Hưu trí mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v... quá trình đóng góp và quá
trình hưởng tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng
thời gian nhất định. Cho nên, sự công băng giữa đóng góp và
hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế,
ngoài đóng góp thuần tuý phải có đóng góp dự phòng để đảm bảo
quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, để xác định được mức đóng góp và mức hưởng
BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về
nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo tuổi, giới tính, ngành
nghề v.v... ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ
bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động v.v...
3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
24
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
3.1. Các chế độ BHXH được áp dụng phổ biến trên thế giới
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO ) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong Công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi
dưỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã - hội; tài chính; thu nhập; tiền lương v.v... Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia; nhu cầu dinh dưỡng; xác xuất tử vong v.v...
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
25
+ Mỗi chế đọ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng
góp của các bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh
quyết toán.
+ Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ
được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như tựng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn, khi xác định điều kiện trợ cấp BHXH tuối già phải dừa vào cơ sớ sinh học là tuổi đời và giới tính của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những nước quy định: Nam 60 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nước quy định: Nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi v.v... Hoặc khi xác định điều kiên hưởng trợ cấp cho chế độ tai nan lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như: điều kiên và môi trương lao động; bảo hộ lao động v.v... Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng tới điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng bảo hiểm của người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc mức tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tiền lương hay tiền công. Ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao, nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở
26
những nước đanh phát triển do mức tiền lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ: ở Pháp, mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% của mức lương bình quân 10 năm cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm). Ốm đau được trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp bằng 90% tiền lương trong vòng 16 tuần v.v... Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42% đến 102%tuỳ thuộc vào nhóm lương khác nhau. Ốm đau được hưởng 65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được hưởng bằng 100% tiền lương v.v...
Tuy vậy, việc các nước qui định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm tiền lương so với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã phải tìm cách khắc phục như: trả ngay một lần khi nghỉ hưu (Nhật bản một lần khi nghỉ hưu là 15 triệu yên; Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia trả một lần bằng tổng số tiền mà chủ và thợ đã đóng góp cộng với lãi) hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy đinh và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi phí quản lý như: tiền lương chi trả cho ngũng người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác v.v... Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời. Mục đích đáu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
Qúa trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.
3.2. Các chế độ BHXH đang được thực hiện ở Việt Nam hiện
nay
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta
hiện nay bao gồm 5 chế độ:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
27
3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hưu trí
5. Chế độ tử tuất
So với trước đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động bị loại bỏ. Nội dung của 5 chế đọ nêu trên được quy định thống nhất trong chương II của Điều lệ. Mỗi chế độ BHXH khi xây dựng đều căn cứ vào một loạt những cơ sở như: sinh học; kinh tế - xã hội; điều kiện và môi trường lao động v.v...
4. Cơ chế quản lý quỹ BHXH
4.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH
Để thực hiện tốt mục đích của quỹ BHXH, trong quá trình quản lý
điều hành hoạt động quỹ BHXH cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản
sau đây:
- Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu,
chi của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để
bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều
hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc lập thống nhất trong phạm vi cả
nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban hành và chịu sự kiểm tra,
giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH đối với các
bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì
mới có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ,
tăng cường công tác quản lý quỹ và mới có điều kiện để quản lý, sử dụng
vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất, không ngừng tinh giảm
biên chế gọn nhẹ, giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động
BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước cần phải luật
pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và
tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát
triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường.
Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo
toàn được vốn, không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi.
Việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:
28
+ Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao.
+ Phải có lãi.
+ Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế
độ BHXH phát sinh.
Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt chẽ theo những nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi , quỹ BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên thực tế. Tổ chức quản lý quỹ đầu tư tăng trưởng vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải tuân theo nguyên tắc hạch toàn kinh doanh.
- Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao động muốn được hưởng quyền lợi về BHXH thì họ phải có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phương thức thích hợp (bắt buộc hay tự nguyện, ít chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thường xuyên đều đặn trong những tháng, năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù hợp với mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo quy định của pháp luật. Vì thế, để tạo nguồn tài chính ổn định cho quỹ BHXH, ngoài sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động Nhà nước cũng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Trong trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách kinh tế - xã hội làm mất cân đối quỹ, hoặc do các rủi ro bất khả kháng, Nhà nước phải có trách nhiệm trợ giúp quỹ BHXH để đảm bảo chi trả có các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Số tiền đóng góp phảo được tính trên cơ sở số tiền lương hoặc thu nhập và được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Do vậy, những đơn vị sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng góp BHXH, phải xử lý thật nghiêm túc. Vì họ trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH không những xâm phạm đến quyền lợi BHXH của người lao động, mà còn gây ra bất bình đẳng với các đơn vị sử dụng lao động thực hiện nghiêm túc đóng BHXH.
Thực hiện nguyên tắc này sẽ xoá bỏ được bao cấp trong chế độ BHXH, tạo ra sự bình đẳng giữa người lao động trong các thành phần kinh tế, tạo ra khả năng cân đối thu, chi quỹ BHXH, xoá bỏ được sự thiếu trách
29
nhiệm của các doanh nghiệp nâng lương bừa bãi cho người lao động trước khi về hưu để được hưởng trợ cấp hưu trí cao hơn.
- Hoạt động BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang tính chất của quỹ tương hỗ bảo hiểm. Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa bảo đảm an toàn cho xã hội và nền kinh tế. Hoạt động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang tính chất cộng đồng, tính chất xã hội giữa những người lao động, trừ chế độ bảo hiểm hưu trí và tử tuất là dựa chủ yếu trên nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Các khoản đóng góp vào quỹ BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH, nếu quỹ không đủ bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp BHXH để bảo đảm quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ BHXH là phải cân đối thu với chi, chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH phải tổ chức công tác kế toán, kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật, sử dụng tiền nhàn rỗi đầu tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và phát triển để có điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người lao động hoặc giảm được sự tài trợ của Nhà nước.
- Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội có liên quan như chính sách lao động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lương, tiền công, chăm sóc y tế, kế hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi vì, chính sách cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước, nó phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với mức độ phát triển của từng loại lao động (ít hay nhiều chế độ BHXH). Đặc biệt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lao động tự do, có như vậy BHXH mới tồn tại và phát triển vững chắc, phù hợp với sự phát triển của các thành phần kinh tế của đất nước. Mặt khác, Nhà nước chỉ bảo trợ quỹ BHXH khi Nhà nước có những thay đổi các chính sách kinh tế xã hội làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH hoặc do các rủi ro bất khả kháng làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản cần phải quán triệt trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH làm cơ sở cho việc cải tiến, hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH ở nước ta trong thời gian tới.
30
4.2. Cơ chế quản lý quỹ BHXH ở nước ta
4.2.1. Giai đoạn trước 1995
Quỹ BHXH hoạt động dưới sự quản lý của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đây chính là 2 cơ quan trực tiếp quản lý BHXH. Cơ chế quản lý quỹ BHXH do 2 ngành đảm nhiệm được thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến điạ phương theo 3 cấp:
Cấp Trung ương : Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội; Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
Cấp tỉnh : Sở Lao động - Thương binh & Xã hội; Liên hiệp Công đoàn
tỉnh, thành phố.
Cấp huyện : Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội; Các Công
đoàn cơ sở.
Cơ quan thứ hai cùng phối hợp quản lý quỹ BHXH là cơ quan Tài chính các cấp. Cơ quan này có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của quỹ BHXH. Vì cơ quan Tài chính có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ và kịp thời nguồn kinh phí để 2 ngành là Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phân phối chi trả cho các đối tượng được hưởng. Cơ quan Tài chính cũng được chia ra làm 3 cấp tương ứng là:
Cấp Trung ương : Bộ Tài chính
Cấp Tỉnh : Sở Tài chính
Cấp Huyện : Phòng Tài chính
`
(1)
(2) (3) Ngoài 2 ngành có liên quan chính đến hoạt động của quỹ BHXH chúng ta còn thấy vai trò rất quan trọng của các cấp chính quyền địa phương. Đó là UBND tỉnh, huyện và xã. Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội và Công đoàn Việt Nam muốn quản lý tốt các đối tượng được (3) hưởng BHXH thì phải thông qua UBND ở từng địa phương.
(1) (1)
đem lại lợi ích cho người lao động.
Tất cả các cơ quan nêu trên đều có vai trò nhất định trong công tác (1) quản lý quỹ BHXH. Các cơ quan này cùng phối hợp hoạt động với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung là quản lý quỹ BHXH có hiệu quả nhất (3) (1) Sơ đồ cấp phát kinh phí (1)
1. Cấp phát kinh phí
31
Bộ LĐTBXH và Phòng LĐTBXH và Sở LĐTBXH và Tổng LĐLĐVN Đối tượng Công đoàn cơ sở Liên hiệp công đoàn 2. Thống nhất dự toán Bộ Tài chính 3. Dự toán Phòng Tài Sở Tài chính chính
4.2.2. Giai đoạn từ 1995 - đến nay
Để triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH trong thời
kỳ đổi mới, ngày 16/2/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
19/CP về việc thành lập tổ chức BHXH Việt Nam trên cơ sở thống
nhất và tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ
thống Lao động - Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam quản lý, để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo,
quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chính sách, chế độ BHXH
theo pháp luật của Nhà nước. Và bắt đầu từ 1/10/1995, hệ thống
tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa
phương đã chính thức đi vào hoạt động.
BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng
Chính phủ , chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Lao động - Thương
binh & Xã hội , các cơ quan Nhà nước về lĩnh vực có liên quan và
sự giám sát của Tổ chức Công đoàn.
Hệ thống BHXH Việt Nam hiện nay gồm :
- Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam, là cơ quan quản lý cao
nhất của BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam
thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Chỉ đạo và giám sát, kiểm
tra việc thu, chi, quản lý quỹ BHXH; quyết định các biện pháp để
bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH; thẩm tra quyết toán và
thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và các cơ
quan quản lý Nhà nước có liên quan bổ sung sửa đổi các chính
sách, chế độ BHXH; giải quyết các khiếu nại của người tham gia
BHXH; đề xuất việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc, các
Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Các thành viên Hội đồng
quản lý là đại diện có thẩm quyền của Bộ Bộ Lao động - Thương
binh & Xã hội, Bộ Tài chính, và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Uỷ viên Hội đồng quản lý là Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam. Các thành viên này do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và
32
miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ Trưởng, Trưởng ban Tổ chức -
Cán bộ Chính phủ.
- BHXH Việt Nam, là cơ quan điều hành trực tiếp cao nhất của hệ thống BHXH Việt Nam, do Tổng giám đốc trực tiếp điều hành và các Phó Tổng Giám đốc giúp việc.
- Cơ chế quản lý quỹ BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ
thống ngành dọc từ trung ương đến địa phương theo 3 cấp:
+ Ở Trung ương là cơ quan BHXH Việt Nam
+ Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là các BHXH
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là BHXH tỉnh).
+ Ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là các
BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là BHXH
huyện).
Tuy nhiên, để BHXH Việt Nam hoạt động có hiệu quả thì
ngành BHXH còn phải kết hợp với Bộ Tài chính, Chính quyền,
UBND các cấp và mạng lưới các ban chi trả BHXH ở các địa phương.
Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam
(Xem phụ lục)
Quỹ BHXH Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quỹ lương của
những người tham gia BHXH trong đơn vị.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng của mình.
- Ngân sách Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực
hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Các nguồn thu khác.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của
Nhà nước, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước và được
Nhà nước bảo hộ quỹ BHXH được sử dụng để chi cho 5 chế độ
mà điều lệ BHXH đã qui định. Đồng thời được sử dụng để chi phí
cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các ngành. Phần nhàn rỗi
33
được phép đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ theo qui
định của Chính phủ.
34
PHẦN THỨ HAI
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1/10/1995
1.Tình hình thu nộp và quản lý quỹ BHXH do Liên đoàn
Lao động Việt Nam quản lý
Trong suốt gần 34 năm quản lý BHXH, Liên đoàn Lao động
Việt Nam thu không đủ bù chi, Nhà nước thường xuyên phải hộ
trợ và đây chính là gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước trong một
thời gian dài. Đặc điểm nổi bật của hoạt động BHXH trong giai
đoạn này là tổng thu BHXH đạt được rất thấp. Những năm trước
1987 tỷ lệ đóng BHXH là 4,7% quỹ lương, trong đó tỷ lệ trích nộp
chi trả lương hưu chỉ là 1%, chính vì vậy tỷ trọng Ngân sách Nhà
nước hỗ trợ cho chế độ này là rất lớn. Trong thời kỳ này, phần thu
dùng để chi trả cho lương hưu luôn thấp hơn phần chi trả các chế
độ BHXH tức thời (ốm đau, thai sản...). Sau này việc nâng tỷ lệ
nộp BHXH lên 15% tổng quỹ lương thì phần dành cho chi trả
lương hưu cũng đã tăng lên. Tuy vậy, do số người được hưởng
lương hưu tăng nhanh, cộng thêm vào đó là khó khăn của nền kinh
tể trong những năm bao cấp, tình trạng thiếu việc làm diễn ra ở
nhiều nơi nên kết quả thu nộp BHXH đạt được thấp, Ngân sách
Nhà nước phải hỗ trợ ở mức cao, đặc biệt là từ năm 1990 với việc
thực hiên Nghị định số 176/CP và 11/CP về giảm biên chế.
Để phân tích cụ thể hơn tình hình thực tế công tác thu và
quản lý quỹ BHXH trong suốt thời kỳ trước năm 1995 khi Tổng
Công đoàn Việt Nam quản lý chia thành 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1962 đến 1963.
- Giai đoan từ 1964 đến 1986.
- Giai đoan từ 1987 đến tháng 9 năm 1995.
1.1. Giai đoạn 1962 - 1963
Ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP
quyết định giao cho Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam (sau
này là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý các chế độ
35
thu chi BHXH; theo đó quy định mức thu BHXH là 4,7% tổng quỹ
lương cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà
nước, riêng đối với công nhân viên chức và quân nhân phục vụ
trong lực lượng vũ trang thì không thu BHXH nhưng vẫn thuộc
diên hưởng các chế độ, chính sách BHXH vì bộ phận này được
Ngân sách Nhà nước đài thọ hoàn toàn. Nguồn thu này dùng để
chi trả trợ cấp cho 6 chế độ BHXH: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, mất sức lao động,
khoản thiếu hụt sẽ được Ngân sách Nhà nước bù thiếu.
Trên cơ sở Nghị định 218/CP, Tổng Công đo àn Lao động Việt Nam đã ra quyết định số 364/CP ngày 2/4/1962 xây dựng các
nguyên tắc quản lý phân cấp thu chi các chế độ BHXH. Theo
quyết định thì việc quản lý quỹ BHXH được thực hiện ở 3 cấp
quản lý:
- Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam là cấp tổng dự toán thu
và chi BHXH.
- Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và một số Công đoàn ngành là bộ phận dự toán cấp 1.
- Công đoàn cơ sở là đơn vị dự toán cấp 2.
Công tác quản lý thu chi được quy định cụ thể cho từng cấp
theo nguyên tắc cấp trên duyệt dự toán quý và năm cho cấp dưới.
Việc thu nộp BHXH từ các cấp công đoàn cơ sở lên các đơn vị dự
toán cấp 1 được tính theo phương thức chênh lệch giữa số phải
thu nộp với số tạm ứng chi cho các chế độ BHXH tại các đơn vị
dự toán cấp 2 theo quy định. Cơ chế hạch toán trên đáp ứng được
yêu cầu quản lý kinh tế, phù hợp với tình hình tổ chức bộ máy và
trình độ cán bộ ở các thời điểm này và vì vậy công tác thu BHXH
đã đạt được tỷ lệ khá so với kế hoạch đề ra, ta có thể thấy điều đó
qua bảng 1 sau:
36
Bảng 1: TÌNH HÌNH THU BHXH CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO
ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1962 – 1963
Kế hoạch thu
Số thu Bảo hiểm xã hội
Thực hiện
Năm
Bảo hiểm xã
(1000 đồng)
so kế hoạch
hội
(%)
Tổng số
Thực thu
NSNN hỗ
(1000 đồng)
(Thu 4,7%)
trợ
(5)
(1)
(2)
(3)
(4)
(6)=(4): (2)
1962
19.975
13.055
13.055
-
65,36
1963
22.021
20.597
20.597
-
93,53
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Trong giai đoạn này, Ngân sách Nhà nước không phải hỗ trợ
cho việc chi trả các chế độ BHXH. Điều này là do việc thực hiên
BHXH đang ở trong giai đoạn đầu, nên việc chi trả thấp, chủ yếu
là chi trả cho những chế độ ngắn hạn. Tỷ lệ thu nộp BHXH đạt
mức 65,36% và 93,53% tương ứng với các năm 1962 và 1963
1.2. Giai đoạn 1964 - 1986
Để phù hợp với yêu cầu quản lý mới theo Quyết định số
62/CP ngày 10/4/1064 của Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tướng
Chính phủ) giao bớt nhiệm vụ quản lý một phần của quỹ BHXH
cho Bộ Nội vụ (sau này là Ngành lao động - Thương binh & Xã
hội) với số thu 1% trong số 4,7% quỹ lương. Trong đó, Tổng
Công đoàn Lao động Việt Nam quản lý ba chế độ BHXH ngắn hạn
là: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Bộ Nội vụ quản lý ba chế
độ BHXH dài hạn là: chế độ hưu trí, chế độ tử tuất, chế độ mất
sức lao động. Thực hiện Quyết định này, Tổng Công đoàn Lao
động Việt Nam đã cùng Bộ Nội vụ ra Thông tư số 13-NV ngày
23/4/1964 hướng dẫn công tác bàn giao nhiệm vụ thu từ quý III
năm 1964 cho Bộ Nội vụ. Các khoản thu BHXH trong quý I và
quý II năm 1964 thuộc phần quản lý của Bộ Nội vụ sẽ được Tổng
Công đoàn Lao động Việt Nam bàn giao phần chênh lệch còn lại
37
sau khi đã trừ đi các khoản trợ cấp thuộc trách nhiệm thanh toán
của Bộ Nội vụ.
Bảng 2: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO TỔNG CÔNG ĐOÀN LAO
ĐỘNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1964 – 1986
Kế hoạch thu
Số thu Bảo hiểm xã hội
Thực hiện
Năm
Bảo hiểm xã
(1000 đồng)
so kế hoạch
(%)
hội
Tổng số
Thực thu
NSNN
(1000 đồng)
(Thu 3,7%)
hỗ trợ
(1)
(3)
(4)
(5)
(6)=(4): (2)
(2)
1964
20.806
19.915
19.915
-
95,72
1965
22.692
18.590
18.590
-
81,92
1966
26.000
21.149
21.149
-
81,34
1967
28.030
26.294
23.294
3.000
83,10
1968
29.721
27.364
21.364
6.000
71,88
1969
33.086
37.044
25.044
12.000
75,69
1970
34.151
49.310
29.310
20.000
85,82
1971
35.779
57.639
30.639
27.000
85,63
1972
34.398
48.659
31.159
17.500
90,58
1973
36.216
51.946
34.946
17.000
96,49
1974
43.290
54.180
39.180
15.000
90,51
1975
42.376
65.884
42.884
23.000
101,20
1976
53.650
69.199
47.199
22.000
87,98
1977
63.684
85.764
64.764
21.000
101,70
1978
73.402
59.019
73.019
22.000
99,48
1979
76.082
92.112
79.112
13.000
103,98
1980
79.160
96.547
81.547
15.000
103,02
1981
121.474
163.417
127.417
36.000
104,89
1982
239.499
240.878
219.878
21.000
91,81
1983
294.693
380.303
310.303
70.000
105,30
1984
410.261
497.857
445.857
52.000
108,68
1985
203.315
227.547
208.147
19.400
102,38
1986
812.900
1.050.842
940.842
110.000
115,74
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
38
Trong quá trình bàn giao nhiệm vụ, Tổng Công đoàn Lao
động Việt Nam đã làm tốt nhiệm vụ hạch toán chi tiết từng khoản
thu - chi BHXH, tách từng phần thu 1% và 3,7% theo yêu cầu của
Nghị định 218/CP nên việc bàn giao nhìn chung không gặp khó
khăn. Trong năm 1964 Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam đã
bàn giao cho Bộ Nội vụ 1 triệu đồng, với công tác chi cho ba chế
độ từ khoản thu 1% tổng quỹ lương công nhân viên chức Nhà
nước. Việc thực hiện công tác thu của Tổng Công đoàn Lao động
Việt Nam đã gắn trách nhiệm chi cụ thể cho các cơ sở được sử
dụng quỹ BHXH để chi cho công tác quản lý. Vì vậy, kết quả thu 3,7% đạt khá cao, năm thấp nhất về thu BHXH cũng đạt 71,88%
(1968) kế hoạch đặt ra, năm cao nhất đạt 115,74% (1986) kế
hoạch, bình quân cả giai đoạn (1964 - 1986) đạt 94,12% kế hoạch
thu hàng năm.
Qua bảng 2 ta có thể thấy, tình hình thu nộp BHXH so với kế
hoạch đặt ra được thực hiện khá tốt, hầu hết các năm đều đạt được
ở mức trên 90%, đặc biệt là những năm cuối thập niên 70 và đầu
80 có nhiều năm vượt năm mức chỉ tiêu đặt ra (trên 100%). Tuy
có những năm vượt mức kế hoạch nhưng có thể thấy rõ là việc
quy định tỷ lệ đóng BHXH cho các chế độ ngắn hạn chưa hợp lý
bởi những năm mà vượt chỉ tiêu thu nộp BHXH cũng chính là
những năm mà Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ rất lớn. Đơn cử
năm 1986 vượt mức kế hoạch 15,74% (là năm vượt mức kế hoạch
cao nhất) nhưng cũng chính là năm Ngân sách Nhà nước phải hỗ
trợ tới 110 triệu đồng. Thực tế này đã đặt ra vấn đề phải thay đổi
trong tỷ lệ đóng góp để giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà
nước, đồng thời cần có sự tổ chức hợp lý hơn để nâng cao hiệu
quả công tác thu BHXH.
1.3. Giai đoạn từ 1986 đến tháng 9/1995 Theo Quyết định số 181/HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội
đồng Bộ trưởng, mức đóng góp vào quỹ BHXH nâng từ 3,7% lên
5% tổng quỹ lương. Mục đích của việc tăng tỷ lệ thu BHXH nhằm
giảm bớt phần trợ cấp của Ngân sách Nhà nước cho Tổng Công
39
đoàn Lao động Việt Nam trong việc thực hiện các chế độ BHXH
cho người lao động.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm đóng góp BHXH của các
đơn vị tham gia BHXH, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có
công văn ra ngày 26/4/1989 về việc phân cấp quản lý quỹ BHXH.
Trên cơ sở công văn này, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã
giao quyền chủ động cho công đoàn cơ sở trong việc quyết định
chi các chế độ BHXH. Thông qua phân cấp quản lý tỷ lệ chi các
chế độ BHXH nên đã quy định cụ thể việc quản lý quỹ BHXH,
xây dựng các định mức trích nộp kinh phí BHXH lên công đoàn cấp trên. Hơn thế nữa, để khuyến khích các công đoàn cơ sở trong
việc thực hiện thu nộp BHXH nhanh chóng kịp thời, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam đã đề ra chế độ trích thưởng 1% số thu
được để làm quỹ khen thưởng cho đơn vị cơ sở đã thực hiện tốt
công tác thu nộp BHXH. Tình hình thu BHXH trong giai đoạn
này được thể hiên qua bảng 3:
Bảng 3: TÌNH HÌNH THU BHXH HÀNG NĂM CỦA TỔNG LIÊN
ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1987 ĐẾN THÁNG 9/1995
Kế hoạch thu
Số thu Bảo hiểm xã hội
Thực
Năm
Bảo hiểm xã
(1000 đồng)
hiện so
hội
kế hoạch
Tổng số
Thực thu
NSNN hỗ
(1000 đồng)
(%)
(Thu 5%)
trợ
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)=(4):(2)
(1)
4.354.431
4.847.600
4.742.600
105.000
108,91
1987
22.476.380
16.572.170
16.427.170
100.000
73,08
1988
66.328.865
56.738.666
56.738.666
-
85,54
1989
68.328.865
58.638.660
58.638.660
-
85,82
1990
66.545.000
60.130.000
60.130.000
-
90,36
1991
21.011.9000
159.736.000
159.736.000
-
76,02
1992
212.073.000
201.395.000
196.019.000
5.376.000
92,43
1993
280.797.000
250.395.000
250.395.000
-
89,17
1994
9-1995
180.007.000
152.530.000
152.530.000
-
84,74
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
40
Qua bảng trên ta thấy, việc nâng mức thu từ 3,7% lên 5%
tổng quỹ lương trong giai đoạn này do Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam quản lý đã có những kết quả bước đầu. Nếu như trong
giai đoạn 1964 - 1986 Ngân sách Nhà nước thường xuyên phải cấp
bù với số tiền không nhỏ thì đến giai đoạn 1987 - 1995 sự hỗ trợ
của Ngân sách Nhà nước đã giảm, mặc dù phần trăm hoàn thành
chỉ tiêu thu nộp còn ở mức khiêm tốn. Thực tế này cho thấy,
trong các giai đoạn công tác kế hoạch thu dường như chưa sát với
thực tế (năm có tỷ lệ thu cao thì Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ
nhiều và ngược lại). Cụ thể, năm 1987 thu BHXH đạt 108,91% kế hoạch, Ngân sách Nhà nước hỗ trợ 105 triệu đồng trong khi đó
năm 1989 thu đạt 85,54% kế hoạch nhưng Ngân sách Nhà nước
không phải hỗ trợ.
Năm
Thực thu
Tỷ lệ thu so với chi
Cân đối thu - chi
(1000 đồng)
(1000 đồng)
(%)
1962
13.055
87,62
-1.845
1965
18.590
97,36
-504
1970
29.310
58,51
-20.785
1975
42.884
68,06
-20.121
1980
81.847
84,28
-15.267
1985
208.147
115,08
27.283
1990
58.638.660
158,63
21.673.232
1991
60.130.000
68,67
-27.435.033
1992
159.736.000
113,36
18.827.672
1993
196.019.000
92,47
-15.970.616
1994
250.395.000
84,34
-46.945.810
9-1995
152.530.000
90,11
-16.740.891
Bảng 4: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THU BHXH DO TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM QUẢN LÝ TỪ 1962 – 1995
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 4 trên ta có thể dễ dàng nhận thấy tình hình thu
BHXH trong thời kỳ 1962 – 1995 thường không đủ bù chi; đặc
biệt là những năm 1991 và 1994 số thu chỉ đạt tương ứng là
41
68,67% và 84,34% so với số chi. Kết quả trên cũng có nghĩa là
trong các năm đó Ngân sách Nhà nước đã phải chuyển sang cho
chi trả các chế độ BHXH những khoản tiền không nhỏ.
Nhận xét:
Qua các số liệu tình hình thu BHXH do Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam quản lý ta có một số nhận xét sau:
- Công tác thu BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
trong thời gian dài có kết quả tương đối tốt (trong thời kỳ 1964 -
1986 đều đạt kết quả ở mức khá cao, trong đó có những năm vượt
kế hoạch đặt ra). Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một thực tế là
những năm có tỷ lệ thu cao so với kế hoạch đề ra cũng lại là
những năm Ngân sách Nhà nước phải trợ cấp lớn do quy định về
tỷ lệ đóng BHXH trên tổng quỹ lương cho các chế độ ngắn hạn
chưa hợp lý và vì vậy việc thay đổi tỷ lệ đóng BHXH cho các chế
độ trên là một thực tế khách quan.
- Chúng ta nên ghi nhận tính chủ động của Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam trong việc kiến nghị với Nhà nước về vấn đề
nâng mức thu BHXH từ 3,7% lên 5% tổng quỹ lương để bảo đảm
cân đối thu - chi cho quỹ BHXH. Kết quả thu BHXH trong giai
đoạn 1987 đến 9/1995 đã được cải thiện rõ rệt thể hiện ở con số trợ cấp từ Ngân sách Nhà nước đã giảm đi đáng kể.
2. Tình hình thu nộp và quản lý quỹ BHXH do Ngành Lao
động - Thương binh & Xã hội quản lý
Để phù hợp với mục tiêu và yêu cầu quản lý mới, ngày
10/4/1964 Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã
có Quyết định số 62/CP giao cho Bộ Nội vụ (sau này là Bộ Lao
động -Thương binh & Xã hội) quản lý một phần quỹ BHXH, cụ
thể là quản lý 3 chế độ dài hạn:
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
- Chế độ mất sức lao động
Trong giai đoạn này, tỷ lệ thu nộp BHXH được quy định ở
mức thấp là 1% tổng quỹ lương, hơn nữa còn thực hiện trong một
42
thời gian dài (từ năm 1964 đến giữa năm 1986) vì vậy việc chi trả
trợ cấp BHXH cho ba chế độ trên thực sự trở thành gánh nặng cho
Ngân sách Nhà nước. Nhận thức được vấn đề không hợp lý trong
việc quy định tỷ lệ đóng 1% tổng quỹ lương cho các chế độ dài
hạn (hưu trí, tử tuất, mất sức lao động) và không có ý nghĩa thực
tiễn trong cân đối thu - chi và đặc biệt không nâng cao được vai
trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh
doanh. Hội đồng Bộ trưởng đã sửa đổi tỷ lệ trích nộp BHXH do
Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý từ 1% lên 10%
tổng quỹ lương, trong đó 2% dành để lại cơ sở làm trợ cấp khó khăn cho công nhân viên chức. Như vậy, con số chính thức mà Bộ
Lao động - Thương binh & Xã hội thu là 8% tổng quỹ lương, song
trên thực tế mức thu này đạt tỷ lệ thấp hơn mà nguyên nhân là do
tình hình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn và do ý thức đóng BHXH của các đơn vị và doanh nghiệp
chưa cao.
Sau Đại hội VII của Đảng, đi đôi với cải cách một bước chế
độ tiền lương, chế độ chính sách về BHXH, ngày 22/6/1993 Chính
phủ đã ra Nghị định 43/CP nâng mức thu BHXH do Bộ lao động -
Thương binh & Xã hội quản lý từ 8% lên 15% tổng quỹ lương.
Trong gần 32 năm quản lý 3 chế độ BHXH, Ngành Lao động -
Thương binh & Xã hội thu BHXH đạt tỷ lệ thấp và ngân sách Nhà
nước phải hỗ trợ với số tiền lớn, với mức trợ cấp bình quân hàng
năm chiếm 74,74% so với chi.
Thời gian Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý,
tình hình thực tế công tác thu và quản lý quỹ BHXH được chia
thành 2 giai đoạn lớn sau:
- Giai đoạn từ 1964 đến 1987
- Giai đoàn từ 1988 đến tháng 9/1995 2.1. Giai đoạn 1964 - 1987
Trong giai đoạn từ 1964 đến 1987 áp dụng mức thu 1% tổng
quỹ lương cho các chế độ: trợ cấp hưu trí, tử tuất, mất sức lao
động. Khi đi vào hoạt động ngành đã nhận bàn giao kinh phí từ
43
Tổng Công đoàn Lao đông Việt Nam chuyển sang là 1 triệu đồng
của năm 1963 và năm 1964 đã thu được 4,418 triệu đồng. Trong 2
năm đầu thu BHXH theo quy định của Nhà nước đã đảm bảo chi
trả gần đủ cho 14.933 đối tượng được hưởng lương hưu, chi trả
trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp tuất cho công nhân viên chức
từ trần. Trong những năm tiếp theo, số thu từ khoản trích nộp 1%
tổng quỹ lương của các đơn vị tăng rất chậm, việc thực hiện nộp
tiền BHXH theo quy định không được chấp hành nghiêm chỉnh,
đồng thời số người được hưởng các chế độ BHXH ngày càng tăng.
Chính vì vậy, phần hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước cũng ngày càng tăng lên. Để phân tích cụ thể hơn ta xem xét các thời kỳ sau:
2.1.1. Thời kỳ 1964 - 1975
BHXH được thực hiện trong giai đoạn này với ý nghĩa nhằm
bảo đảm các chính sách xã hội của hậu phương lớn để thực hiện
nhiệm vụ giải phóng Miền nam thống nhất đất nước, số thu BHXH
so với mức dự kiến thu từ tổng quỹ lương đạt kết quả khá, có
những năm như 1975 đạt 93,46% kế hoạch thu. Đạt được kết quả
này là do Ngân sách Nhà nước bao cấp về tiền lương, về cung cấp
vật tư và tiêu thụ sản phẩm, số thu 1% không đáng kể và được
Nhà nước cho phép tính vào chi phí sản xuất nên các đơn vị sản
xuất kinh doanh đều có điều kiện thực hiện. Ngoài ra, đối với các
đơn vị hành chính sự nghiệp việc kiểm soát chi chặt chẽ, việc
chấp hành các chế độ tài chính được thực hiện nghiêm túc, các
khoản chi tiền lương do Bộ Tài chính duyệt và cấp phát theo từng
khoản mục chi cụ thể nên khoản thu 1% cơ bản đạt yêu cầu đề ra.
2.1.2. Thời kỳ 1976 - 1987
Sau khi đất nước thống nhất, Miền bắc tiếp tục thực hiện mức
thu BHXH bằng 1% tổng quỹ lương, nguồn thu này vẫn được nộp
vào quỹ BHXH của Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội. Miền nam trong giai đoạn này thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa,
về cơ bản các doanh nghiệp quốc doanh không thực hiện việc thu
nộp BHXH theo quy định, chỉ đến những năm đầu thập kỷ 80 mới
thực hiện công việc này.
44
Từ năm 1981, tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn,
mức thu BHXH giảm hàng năm: năm 1981 đạt 79,65%, 1987 chỉ
còn 33,18% so với kế hoạch thu BHXH. Do thu nộp BHXH đạt kết
quả thấp, trong khi đó mức trợ cấp BHXH ngày càng tăng, vì vậy
năm 1976 Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ cho quỹ BHXH là
83,16% và đến năm 1987 mức hỗ trợ này lên tới 97,66% tổng số
chi.
Trong một thời gian dài áp dụng tỷ lệ thu 1% không phù hợp
nên năm 1973 Bộ Nội vụ đã có tờ trình số 988/NV đề nghị nâng
mức thu từ 1% lên 7% tổng quỹ lương nhưng không được Nhà nước chấp thuận vì có những quan điển cho rằng cơ quan hành
chính sự nghiệp, đơn vị kinh doanh vẫn được Nhà nước bao cấp.
Ngành tài chính thì quan niệm cho rằng chế độ BHXH như một
chế độ tiền lương do Nhà nước bảo đảm nên đã có những văn bản
quy định chi BHXH theo chế độ cấp phát dự toán hàng tháng,
hàng quý như đối với cơ quan hành chính sự nghiệp khác. Với cơ
chế cấp phát kinh phí BHXH mang nặng tính bao cấp, ỷ lại vào
Ngân sách Nhà nước nên hạn chế tính tích cực trong việc thực
hiện thu BHXH của Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội.
Tuy vậy, những tồn tại trên không thể duy trì lâu dài và đến cuối
thập kỷ 80 Nhà nước đã quyết định sửa đổi lại các quy định về
hoạt động BHXH.
2.2. Giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/1995
Trước những tồn tại trong công tác thu BHXH, năm 1988
Chính phủ quy định mức thu BHXH bằng 10% quỹ tiền lương do
cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp. Tuy vậy, do cuộc sống của
công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn nên trích lại 2% trong số
10% tổng quỹ lương để chi trợ cấp khó khăn cho công nhân viên
chức Nhà nước. Do tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 80 gặp khủng hoảng, mức lạm phát cao vì vậy thu
BHXH luôn đạt thấp hơn so với chi. Đến năm 1993 Chính phủ
phải tăng mức thu BHXH từ 8% lên 15% quỹ tiền lương, trong đó:
45
- Cơ quan, xí nghiệp trích nộp vào quỹ BHXH 10% quỹ tiền
lương.
- Cán bộ công nhân viên chức phải nộp BHXH là 5% tiền
lương của bản thân.
Việc quy định người lao động phải nộp BHXH từ tiền lương
của bản thân mình là một bước ngoặt trong thực hiện các chế dộ
BHXH của Nhà nước, giúp cho công tác BHXH của chúng ta có
thể hoà nhập với các nước khác trên thế giới. Tổ chức thu và quản
lý thu BHXH trong giai đoạn này được thể hiện bởi các tổ chức
sau:
2.2.1. Từ năm 1988 đến tháng 6/1989
Trong thời gian này hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước gặp rất nhiều khó khăn và ý thức chấp
hành nộp BHXH chưa nghiêm túc, Ngành Lao động - Thương binh
& Xã hội không đủ điều kiện đôn đốc, kiểm tra thu nộp nên số thu
BHXH mức 8% tổng quỹ lương đạt rất thấp. Tình hình trên đã gây
ảnh hưởng rất nhiều đến nguồn kinh phí chi trả cho các đối tượng
hưởng BHXH bởi vì Bộ Tài chính chỉ thực hiện hỗ trợ phần chênh
lệch sau khi đã trừ đi kế hoạch giao cho Ngành Lao động -
Thương binh & Xã hội. Trước tình hình đó Ngành Lao động -
Thương binh & Xã hội đã phải vay ngân hàng với lãi suất cao
dưới sự bảo lãnh của Bộ Tài chính và hậu quả là các khoản nợ tồn
đọng nhiều năm mới thanh toán được.
2.2.2. Từ tháng 6/1989 đến tháng 9/1995
Thực hiện Thông tư liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động -
Thương binh & Xã hội số 22TT/LB, Bộ Tài chính nhận trách
nhiệm thu BHXH là 8% trên tổng quỹ lương. Mục đích của việc chuyển đổi cơ chế quản lý thu BHXH này là nhằm gắn trách
nhiệm của Bộ Tài chính trong việc đảm bảo kinh phí chi trả các
chế độ BHXH cho đối tượng được hưởng một cách kịp thời. Chính
phủ phân cấp nhiệm vụ thu BHXH cho Bộ Tài chính như sau:
46
- Bộ Tài chính trực tiếp trích nộp vào quỹ BHXH số phải nộp
BHXH cho các cơ quan, đơn vị hành chính do Trung ương quản
lý.
- Sở Tài chính vật giá các tỉnh, thành phố trích nộp vào quỹ
BHXH của các đơn vị hành chính sự nghiệp do địa phương quản
lý.
- Các cục, các vụ quản lý thu các doanh nghiệp quốc doanh
Trung ương và địa phương đóng trên địa bàn. Từ năm 1993, Bộ
Tài chính lại giao nhiệm vụ thu BHXH cho Tổng cục thuế nhằm
gắn trách nhiệm vừa đôn đốc thu nộp thuế, vừa đôn đốc giám sát thu BHXH.
Sự thay đổi tổ chức thu BHXH như trên, đã giúp công tác thu
BHXH đạt hiệu quả cao hơn. Cụ thể, sau khi bàn giao nhiệm vụ
thu BHXH trong quý III năm 1989 Bộ Tài chính đã thực hiện
tương đối tốt công tác thu: kết quả thu cả năm đạt 85,15% kế
hoạch trong khi năm 1988 Ngành Lao động - Thương binh & Xã
hội quản lý chỉ đạt 40,43% kế hoạch thu.
47
Bảng 5: TÌNH HÌNH THU BHXH DO NGÀNH LAO ĐỘNG - THƯƠNG
BINH & XÃ HỘI QUẢN LÝ TỪ NĂM 1964 ĐẾN THÁNG 9/1995
Số thu Bảo hiểm xã hội
Ngân sách Nhà nước cấp
Năm
Thực thu
So với chi
Thực cấp
So vớ i chi
(1000 đồng)
(%)
(1000đồng)
(%)
48
-
0,00
1964
4.418
100,00
2.740
37,40
1965
4.586
62,60
4.039
41,56
1966
5.680
58,44
5.400
47,46
1967
5.979
52,54
8.202
54,80
1968
6.765
45,20
10.971
58,76
1969
7.699
41,24
18.813
70,28
1970
7.955
29,72
35.323
80,35
1971
8.636
19,65
43.117
84,37
1972
7.987
15,63
48.409
84,30
1973
9.016
15,70
52.592
84,18
1974
9.885
15,82
58.469
84,52
1975
10.705
15,48
61.819
83,16
1976
12.521
16,84
68.304
83,24
1977
13.749
16,76
72.393
79,04
1978
19.192
20,96
94.499
82,13
1979
20.560
17,87
123.246
84,20
1980
23.125
15,80
254.375
89,20
1981
30.796
10,80
462.006
91,91
1982
40.661
8,09
848.037
93,95
1983
54.632
6,05
1.148.988
93,57
1984
78.936
6,43
4.916.266
96,97
1985
153.417
3,03
2.959.122
96,78
1986
98.555
3,22
12.770.000
97,66
1987
306.400
2,34
35.891.000
70,96
1988
14.686.000
29,04
186.877.000
67,40
1989
90.403.000
32,60
286.877.000
75,07
1990
95.259.000
24,93
387.420.000
76,66
1991
117.963.000
23,34
505.203.000
71,12
1992
205.143.000
28,88
2.020.921.000
87,87
1993
279.079.000
12,13
3.106.000.000
70,59
1994
1.294.000.000
29,41
Qua bảng 5 ta có thể thấy, tình hình thu BHXH của Ngành
Lao động - Thương binh & Xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu chi
trả cho các chế độ BHXH mà ngành quản lý. Số thu BHXH hàng
năm luôn nhỏ hơn rất nhiều so với số chi trả cho 3 chế độ BHXH
và nhiều năm số thu này có thể coi là không đáng kể so với số chi:
49
đơn cử năm 1987 số thu chỉ đạt 2,34% so với chi và Ngân sách
Nhà nước bù thiếu tới 97,66%. Đây thực sự là gánh nặng quá lớn
cho Ngân sách Nhà nước trong một thời gian dài.
Nhận xét:
Việc thực hiện thu BHXH bằng 1% tổng quỹ lương trong một
thời gian dài (1964 - 1987) đã làm cho Ngân sách Nhà nước phải
bù thiếu rất lớn cho chi trả các chế độ hưu trí, trơ cấp tuất và mất
sức lao động do Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý.
Tính ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước thể hiện khá rõ trong kết quả
thu: thường xuyên đạt thấp so với kế hoạch đề ra và thấp hơn
nhiều so với thực chi. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi mà
Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội yêu cầu nâng mức thu
lên nhưng không được chấp nhận.
Công tác thu BHXH trong giai đoạn Ngành Lao động -
Thương binh & Xã hội quản lý chỉ dừng lại ở hình thức tự nguyện
của các đơn vị, cơ quan chưa thực sự có tính bắt buộc. Vì vậy,
ngay cả với các doanh nghiệp Nhà nước cũng chưa tự giác đóng
BHXH. Trong thời gian dài, công tác thu BHXX chỉ dựa chủ yếu
vào sự tự giác của các cơ quan, doanh nghiệp thông qua việc
chuyển số thu BHXH vào tài khoản của Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội. Ngoài ra, việc không lập danh sách đơn vị sử dụng
lao động và số lao động mà chỉ căn cứ vào tổng quỹ lương để xác
định kế hoạch nộp nên gây khó khăn cho công tác giải quyết các
chế độ BHXH cho người lao động.
Do mang nặng tư tưởng ỷ lại vào sự bảo đảm của Ngân sách
Nhà nước cho nên chưa phát huy được tính tự chủ và nâng cao
trách nhiệm của Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội. Trong
một thời gian dài, ngành chưa kiến nghị được với Chính phủ
những biện pháp tổ chức, thực hiện cụ thể về vấn đề: thu, lệ phí
thu và những hình thức thu nộp BHXH khác nên có lúc đã giao lại
cho ngành Tài chính.
3. Đánh giá chung
50
Có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn từ 1962 đến 1/10/1995
cả Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam (sau này là Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam) cùng với Ngành Lao động - Thương
binh & Xã hội đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành nhiệm
vụ thu nộp BHXH. Trong chừng mực nhất định, chính sách BHXH
lúc đó đã có tác dụng góp phần đảm bảo ổn định đời sống và động
viên khuyến khích đội ngũ công nhân viên chức, lực lượng vũ
trang làm việc, chiến đấu, tạo ra sự gắn kết giữa người lao động
và xã hội, góp phần vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân đế quốc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì quá trình
thực hiện các chế độ chính sách BHXH trong cơ chế cũ không
tránh khỏi những bất cập, hạn chế cần khắc phục, cụ thể:
- Do cách tính mức đóng góp BHXH không tương xứng với
mức chi trả cho các chế độ BHXH. Do vậy, trong một thời gian
dài Ngân sách Nhà nước thường xuyên phải hỗ trợ cho các cơ
quan trên trong chi trả BHXH dẫn tới việc chưa xây dựng và hình
thành được quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nước, nguồn
hình thành thực chất là do Ngân sách Nhà nước cấp phát. Trong
khi đó, đối tượng tham gia và được hưởng các chế độ BHXH chỉ
áp dụng đối với công nhân viên chức và lực lượng vũ trang nên
thực sự chưa thể hiện tính xã hội cao, có sự phân biệt giữa người
lao động làm việc trong khu vực Nhà nước và ngoài khu vực Nhà
nước, gây tâm lý chỉ lao động trong khu vực Nhà nước mới có vị
trí trong xã hội và chưa thể hiện sự công bằng khi tuổi già.
- Tổ chức quản lý BHXH phân tán, không có một cơ quan đặc
trách riêng quản lý Nhà nước về BHXH cũng như không có một
cơ quan đặc trách riêng về quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH mà có sự lẫn lộn giữa hai chức năng này ở cả hai cơ quan quản lý
trên. Việc có nhiều cơ quan cùng quản lý các chế độ BHXH đã
gây ra sự chồng chéo không thống nhất trong điều hành, quản lý
thu nộp BHXH đồng thời cũng tạo ra sự không đồng bộ trong các
51
chế độ chính sách BHXH, theo đó là sự nhận thức không đầy đủ
về BHXH từ người quản lý đến người lao động đã dẫn tới thiếu
chủ động trong kiến nghị, đề xuất của từng cơ quan với Chính phủ
về các thay đổi trong mức đóng góp, phạm vi các đối tượng tham
gia và được hưởng BHXH v.v... cho phù hợp với tình hình thức tế.
- Ngoài ra, việc trông chờ vào sự bao cấp của Ngân sách Nhà
nước và sự thiếu chủ động của các cơ quan quản lý BHXH cũng
đã tạo ra thói quen, tâm lý ỷ lại, thiếu tự giác của cả chủ sử dụng
lao động và người lao động, họ chưa thấy rõ hết trách nhiệm cũng
như quyền lợi trong việc tham gia BHXH. Bên cạnh đó, các chế độ BHXH của ta chưa áp dụng được hầu hết các chế độ BHXH do
Tổ chức lao động quốc tế (ILO ) đề ra và còn có sự đan xen kẽ của
các chế độ ưu đãi và trợ cấp xã hội vào đó. Điều này đã gây hết
sức khó khăn cho việc thực hiện công tác BHXH khi chuyển sang
cơ chế mới.
Chính tất cả những bất cập, hạn chế trên mà việc ra đời một
cơ quan duy nhất giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ
BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật
của Nhà nước là một thức tế khách quan trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hướng hoạt động
sự nghiệp BHXH Việt Nam theo đúng nội dung, bản chất vốn có
của nó.
II. GIAI ĐOẠN TỪ 1/10/1995 - ĐẾN NAY
1. Các căn cứ pháp lý
Trong tiến trình cải cách kinh tế - xã hội thì các chế độ, chính
sách BHXH trước đây không còn phù hợp nữa. Nó đã và đang
được đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế, thể hiện:
- Ngày 15/6/1996, Bộ Luật lao động được Quốc hội khoá IX
thông qua tại kỳ họp thứ 5, có hiệu lực từ 1/1/1995 trong đó có
chương IX về BHXH đã chính thức ghi nhận sự đóng góp của ba
bên vào quỹ BHXH. Để cụ thể hoá các quy định của Bộ Luật lao
động, Chính phủ đã có các Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và
số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với
52
công chức, công nhân viên chức Nhà nước và mọi người lao động
theo loại hình BHXH bắt buộc và Điều lệ BHXH đối với sỹ quan
quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân
và công an nhân dân nhằm đảm bảo đời sống vật chất, góp phần
ổn định cuộc sống cho những người và gia đình tham gia BHXH.
- Để đưa những nội dung của Bộ Luật lao động và các Nghị
định nêu trên vào triển khai thực hiện trong thực tế, ngày
16/2/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP về việc thành
lập tổ chức BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức
BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động -
Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với
chức năng, nhiệm vụ chính là: tổ chức thu BHXH; giải quyết chế
độ, chính sách BHXH; chi trả cho đối tượng hưởng BHXH; đầu
tư, bảo toàn và tăng trưởng quỹ BH XH. Nhưng trên thực tế do
phải tiếp nhận bàn giao tổ chức và nhân sự từ hai ngành nên trong
phạm vi toàn quốc, BHXH chính thức đi vào hoạt động từ
1/10/1995.
- Sau hơn 7 tháng ban hành Nghị định 19/CP, ngày 26/9/1995
Thủ tướng Chính phủ lại ra Quyết định số 606/QĐ/TTg về việc
ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Tiếp
đến là Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối
với BHXH Việt Nam.
- Cũng với mục đích giúp cho hoạt động của ngành BHXH
tiến hành được thuận lợi, ngày 24/7/1995 Bộ Tài chính đã ra
Thông tư số 58/TC/HCSN “Hướng dẫn tạm thời về quản lý thu -
chi BHXH thuộc hệ thống BHXH’’. Cho đến ngày 30/12/1996,
Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam lại có Quyết định số 177/BHXH
về việc ban hành quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống
BHXH Việt Nam.
53
Trên đây là một số văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh công
tác quản lý BHXH nói chung, quỹ BHXH và công tác thu nộp
BHXH nói riêng. Nó được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau
đây:
2. Những nội dung cơ bản về BHXH và quỹ BHXH
2.1. Đối tượng tham gia BHXH
Theo Điều II - Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính
phủ, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người sử dụng lao
động và người lao động (kể cả người được cử đi học, đi thực tập,
điều dưỡng, công tác ở trong, ngoài nước vẫn thuộc danh sách trả
lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ
quan, đơn vị, tổ chức sau đây:
- Các doanh nghiệp Nhà nước
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động
trở lên.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất,
khu công nghiệp.
- Các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ
trang.
- Các tổ chức kinh tế, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự
nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể.
- Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt
tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước CHXHCN
Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Các đơn vị sự nghiệp gắn thu bù chi, đơn vị sự nghiệp
hưởng nguồn thu bằng viện trợ nước ngoài (kể cả viện trợ của tổ
chức phi chính phủ) để trả lương cho công nhân viên chức trong
đơn vị.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính sự
nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể, hội quần chúng, dân cử từ trung
ương đến cấp huyện (sau này được mở rộng ra đối với cấp xã,
54
phường, thị trấn theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 09/1998/
NĐ - CP ngày 23/1/1998).
- Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ (nay
là Bộ Công an) và Ban Cơ yếu Chính phủ (chi tiết, cụ thể xem
thêm Điều 3, Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 45/
CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ).
Cùng với đối tượng tham gia BHXH được mở rộng hơn so với
trước đây, thì loại hình tham gia BHXH cũng được thống nhất:
BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Vấn đề này bước đầu đã tạo
ra sự bình đẳng giữa những người lao động thuộc các thành phần
kinh tế. Với đối tượng đã được quy định như ở trên, hiện nay cả
nước ta đã có khoảng 10% lực lượng lao động tham gia BHXH.
2.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH theo quy định
trên.
- Ngân sách Nhà nước chuyển sang gồm:
+ Tiền để chi trả cho các đối tượng đang hưởng các chế độ
BHXH trước ngày Điều lệ BHXH có hiệu lực (1/1/1995).
+ Tiền đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động sau ngày ban hành Điều lệ BHXH.
+ Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng các chế độ
BHXH.
- Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện phương án bảo toàn
và phát triển quỹ BHXH.
- Thu từ nguồn tài trợ, viện trợ quốc tế, trong nước.
- Giá trị tài sản của BHXH được đánh giá theo quy định của
Chính phủ.
- Thu khác.
2.3. Quản lý thu nộp BHXH
2.3.1. Căn cứ để quản lý thu nộp BHXH
55
Để quản lý và thực hiện việc thu nộp BHXH phải căn cứ vào
bảng thanh toán lương (hoặc sổ lĩnh lương) cuả đơn vị sử dụng
lao động, trong đó có danh sách lao động, mức lương và các
khoản phụ cấp trả cho người lao động trong tháng (trừ lao động
hợp đồng phụ việc, lao động hợp đồng ngắn hạn).
2.3.2. Mức thu và nguồn kinh phí để trích nộp BHXH
a. Mức thu nộp BHXH
Mức thu nộp BHXH là 20% tổng quỹ lương hàng tháng, trong
đó:
- Cơ quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động đóng góp bằng
15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH.
- Người lao động (người tham gia BHXH) đóng bằng 5% tiền
lương hàng tháng.
b. Tiền lương và quỹ tiền lương hàng tháng làm căn cứ trích
nộp BHXH
- Đối với khu vực hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn
thể, hội quần chúng, dân cử và lực lượng vũ trang thì quỹ tiền
lương làm căn cứ trích nộp BHXH gồm: Tiền lương chính theo
ngạch, bậc, theo cấp hàm, chức vụ do bầu cử và các khoản phụ
cấp chức vụ, khu vực, đắt đổ, thâm niên, phụ cấp thâm niên tái cử,
hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có) theo quy định tại Nghị định số
35/NQ-UBTVQHK9 ngày 17/5/1993 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội Khoá 9; Quyết định số 09/QĐ-TW ngày 17/5/19993 của Ban
Bí thư; Nghị định số 25/CP ngày 17/5/1993 của Chính phủ; Quyết
định số 574/TTg ngày 25/11/1993 của Thủ tướng Chính phủ và
Nghị định số 05/CP ngày 26/1/1994 của Chính phủ.
- Đối với khu vực sản xuất kinh doanh gồm: Các doanh
nghiệp quy định tại điểm 1, 2, 3, 4, 5 mục 2.1 - đối tượng tham
gia BHXH nêu ở trên thì tổng quỹ lương làm căn cứ trích nộp BHXH là tổng tiền lương tháng của những người tham gia BHXH
gồm: Tiền lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch
bảo lưu và các khoản trợ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp
56
đắt đỏ... (nếu có) theo đúng Nghị định số 26/CP ngày 25/3/1993
và Nghị định số 05/CP ngày 26/1/1994 của Chính phủ.
Các doanh nghiệp nếu đã ký hợp đồng lao động thì trích nộp
BHXH tính trên tổng quỹ tiền lương theo hợp đồng đã ký kết.
- Đối với các đơn vị quy định tại điểm 6, 7 mục 2.1 - đối
tượng tham gia nêu ở trên thì tổng quỹ lương để làm căn cứ trích
nộp BHXH là quỹ lương hợp đồng.
c. Nguồn trích nộp và hạch toán kế toán
- Khoản đóng góp BHXH bằng 15% quỹ tiền lương thuộc
trách nhiệm đóng góp của cơ quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động:
+ Đối với đơn vị hưởng lương từ nguồn Ngân sách Nhà nước
cấp, tính trong dự toán kinh phí hàng quỹ, năm và hạch toán vào
mục 68: chi BHXH theo chương, loại, khoản và hạng tương ứng.
+ Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh - dịch vụ thì tính vào
chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ và hạch toán vào mục "trích
bảo hiểm xã hội".
+ Đối với các đơn vị gắn thu bù chi, đơn vị hưởng nguồn viện
trợ của nước ngoài thì trích từ nguồn thu, nguồn viện trợ để nộp
BHXH và hạch toán vào chi phí quản lý.
- Khoản đóng BHXH của người lao động: Cơ quan, đơn vị
hoặc chủ sử dụng lao động trích từ tiền lương hàng tháng của từng
người, nộp vào quỹ BHXH cùng một lúc với 15% đóng góp của cơ
quan, đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động.
2.3.3. Phân cấp quản lý thu nộp BHXH
Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi tắt là BHXH tỉnh) có trách nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ
đạo BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là BHXH huyện) thu BHXH của tất cả các đơn vị, tổ chức, cơ quan của Trung ương và địa phương (sau đây gọi chung
là đơn vị) có tài khoản và trụ sở đóng trên địa bàn của tỉnh theo
phân cấp quản lý như sau:
57
- BHXH tỉnh thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản
tại tỉnh, bao gồm:
+ Các đơn vị thuộc Trung ương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh
(riêng lực lượng vũ trang hưởng BHXH theo Nghị định số 45/CP
có hướng dẫn ở văn bản khác).
+ Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Các đơn vị, tổ chức quốc tế có trên địa bàn tỉnh, trừ trường
hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 50 lao động
trở lên.
Trường hợp BHXH các huyện thuộc tỉnh không đủ điều kiện
để thực hiện nhiệm vụ thu BHXH của các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh dưới 50 lao động hoặc các đơn vị Trung ương, đơn vị
thuộc tỉnh có số lao động không nhiều thì Giám đốc BHXH tỉnh
quyết định việc phân cấp thu đối với từng đơn vị cụ thể cho
BHXH huyện.
- BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài
khoản tại huyện, bao gồm:
+ Các đơn vị thuộc cấp huyện trực tiếp quản lý.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động
đến 50 lao động.
+ Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu theo
quyết định phân cấp thu.
Trường hợp BHXH tỉnh mở rộng đối tượng thu BHXH tự
nguyện đối với doanh nghiệp sử dụng lao động dưới 10 lao động
phải báo cáo BHXH Việt Nam để trình Hội đồng quản lý xem xét
quyết định.
- Đối với một số đơn vị có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở
và hoạt động ở địa bàn thuộc nhiều tỉnh muốn nộp BHXH cho các
đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh nơi đóng trụ sở chính thì phải có sự
58
thống nhất của BHXH các nơi có liên quan (nơi có trụ sở các đơn
vị trực thuộc đóng) và được BHXH Việt Nam chấp thuận.
2.3.4. Lập kế hoạch thu nộp BHXH
a. Đối với các đơn vị sử dụng lao động:
- Hàng tháng, căn cứ vào số biên chế và kế hoạch quỹ tiền
lương của đơn vị mình lập kế hoạch nộp BHXH trong quý và đăng
ký ngày nộp tiền từng tháng gửi cho cơ quan BHXH vào ngày 20
của tháng cuối quý trước.
b. Đối với cơ quan BHXH tỉnh, huyện:
- Hàng tháng, BHXH huyện tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do mình chịu trách nhiệm tổ chức thu và ghi sổ BHXH
gửi cho BHXH tỉnh vào ngày 25 của tháng cuối quý trước.
- Hàng quý, BHXH tỉnh tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các
đơn vị do BHXH tỉnh trực tiếp thu BHXH. Tổng hợp kế hoạch thu
BHXH trên địa bàn toàn tỉnh, nộp cho BHXH Việt Nam vào ngày
30 của tháng cuối quý trước. Riêng kế hoạch thu BHXH của cả
năm do BHXH tỉnh lập bao gồm tất cả các đơn vị sử dụng lao
động trên địa bàn tỉnh và tổng hợp theo địa bàn.
2.3.5. Tổ chức thu BHXH và ghi sổ BHXH cho người lao
động
- Hàng tháng, căn cứ vào kế hoạch nộp tiền BHXH do các
đơn vị sử dụng lao động đã đăng ký, BHXH tỉnh, huyện đôn đốc
và tổ chức thu BHXH bằng 20% quỹ lương (đơn vị sử dụng lao
động đóng 15% so với tổng quỹ lương, người lao động đóng 5%
tiền lương tháng) vào ngày của kỳ lương đầu tiên trong tháng.
- Tháng cuối quý, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập
danh sách nộp BHXH của người lao động thuộc đơn vị mình, tính
đủ số tiền phải nộp BHXH theo lương của người lao động trong
quý gửi cho cơ quan BHXH 2 bản.
- Cán bộ phụ trách thu thuộc cơ quan BHXH có trách nhiêm
kiểm tra tiền lương, mức đóng góp của từng người lao động và
tổng số tiền phải nộp BHXH của toàn bộ đơn vị sử dụng lao động.
Cuối mỗi quý cùng với đơn vị sử dụng lao động đối chiếu với số
59
đã nộp với số phải nộp BHXH, lập bản xác nhận về việc nộp
BHXH trong quý. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải
nộp thì phải nộp tiếp vào tháng đầu của quý sau (nếu có chênh
lệch thiếu) hoặc coi như đã nộp trước cho tháng đầu của quý sau
(nếu có chênh lệch thừa). Sau đó, cán bộ phụ trách thu tiến hành
ghi sổ BHXH cho từng người lao động và xác nhận vào 2 bản
danh sách đóng BHXH của đơn vi sử dụng lao động, trả lại cho
đơn vị sử dụng lao động 1 bản, 1 bản lưu tại cơ quan BHXH.
- Trường hợp chậm nộp BHXH hàng tháng thì số tiền nộp
chậm sẽ phải nộp phạt theo lãi suất tiền gửi ngắn hạn của Ngân hàng tại thời điểm truy nộp là 0,7% tháng.
- Người lao động và đơn vị sử dụng lao động cố tình không
nộp BHXH theo đúng thời hạn và đủ mức theo quy định, thì cơ
quan BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam có quyền từ chối
việc chi trả các chế độ BHXH của tất cả người lao động thuộc đơn
vị đó; đồng thời báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên và thông báo
cho các cơ quan hữu quan để có biện pháp giải quyết.
- Bộ phận Kế toán - Tài chính thuộc BHXH các tỉnh, các
huyện thực hiện chuyển tiền thu BHXH lên BHXH cấp trên đúng
thời hạn theo quy định tại công văn số 193 CV/LN ngày 9/9/1995
của liên ngành BHXH Việt Nam và Kho bạc Nhà nước Trung
ương.
- Chế độ báo cáo thu BHXH:
+ Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 5, 15 hàng tháng, cơ
quan BHXH các huyện báo cáo về tình hình thu BHXH gửi về
BHXH tỉnh.
Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 7, 17 hàng tháng, BHXH
tỉnh tổng hợp số thu BHXH trên địa bàn báo cáo gửi về BHXH
Việt Nam.
+ Chậm nhất là ngày 28 hàng thàng, BHXH các huyện tổng
hợp, lập báo cáo về số thu BHXH trong tháng được xác định từ
ngày 26 của tháng trước đến ngày 25 của tháng báo cáo, có xác
60
nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản gửi về cho
BHXH tỉnh.
Cơ quan BHXH tỉnh, tổng hợp số thu trên toàn địa bàn trong
tháng được xác nhận từ ngày 29 của tháng trước đến ngày 28 của
tháng báo cáo có xác nhận của Kho bạc Nhà nước nơi mở tài
khoản, gửi về cho BHXH Việt Nam chậm nhất là ngày 30 hàng
tháng.
Riêng tháng 12 hàng năm số liệu được xác định đến hết ngày
31/12.
+ Chậm nhất là ngày 5 tháng 1 năm sau BHXH huyện phải nộp báo cáo cho BHXH tỉnh về số thu BHXH năm trước có xác
nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước huỵện. BHXH tỉnh tổng hợp
báo cáo số thu BHXH trên toàn địa bàn trong năm có xác nhận của
cơ quan Kho bạc Nhà nước tỉnh gửi cho BHXH Việt Nam chậm
nhất là ngày 10/1 năm sau.
3. Tình hình thu nộp BHXH
3.1. Công tác thu nộp BHXH
Đây là nhiệm vụ được xác định là điều kiện tiên quyết cho
việc hình thành và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy ngay từ khi
mới thành lập, trên cơ sở những văn bản hướng dẫn hoạt động
BHXH và danh sách các đơn vị sử dụng lao động nhận bàn giao từ
cơ quan Lao động – Thương binh & xã hội, Tài chính, Liên đoàn
Lao động. BHXH các tỉnh, thành phố đã đã tập trung nắm tình
hình hoạt động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh
sách được bàn giao, cũng như các đơn vị ngoài danh sách bàn giao
nhưng trong diện phải tham gia BHXH theo quy định của pháp
luật. Nhờ có sự cố gắng trên, toàn ngành BHXH Việt Nam đã đạt
được những thành tích nhất định, khẳng định được vị trí của mình,
khẳng định được sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động của ngành. Đó là số thu BHXH ngày một tăng, năm sau cao hơn
năm trước. Thể hiện:
3.1.1. Tình hình đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao
động
61
Theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và
Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ, các cơ quan
đơn vị doanh nghiệp thuộc diện đóng bắt buộc phải đóng BHXH
bằng 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH. Từ
quý IV/1995 đến năm 2000, tổng số tiền đóng BHXH là
14.765.691 triệu đồng, số liệu cụ thể các năm như sau:
- Quý IV/1995 : 296.250 triệu đồng.
- Năm 1996 : 1.927.300 triệu đồng.
- Năm 1997 : 2.584.208 triệu đồng.
- Năm 1998 : 2.906.967 triệu đồng. - Năm 1999 : 3.139.541 triệu đồng.
- Năm 2000 : 3.911.425 triệu đồng.
3.1.2. Tình hình đóng BHXH của người lao động
Từ khi BHXH Việt Nam chính thức hoạt động(tháng 10/1995)
đến nay, tổng số tiền mà cơ quan BHXH đã thu được từ người lao
động là 4.921.896 triệu đồng, trong đó:
- Quý IV/1995 : 98.750 triệu đồng.
- Năm 1996 : 642.433 triệu đồng.
- Năm 1997 : 861.403 triệu đồng.
- Năm 1998 : 968.989 triệu đồng.
- Năm 1999 : 1.046.513 triệu đồng.
- Năm 2000 : 1.303.808 triều đồng.
3.1.3. Nguồn đóng và hỗ trợ thêm từ Ngân sách Nhà nước
Trong thời gian từ tháng 10/1995 đến hết tháng 12/2000, tổng
số tiền hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH để chi trả
cho các đối tượng nghỉ chế độ BHXH có thời gian tham gia
BHXH từ năm 1995 trở về trước là 26.966.679 triệu đồng, cụ thể
như sau:
- Quý IV/1995 : 1.112.030 triệu đồng. - Năm 1996 : 4.387.903 triệu đồng.
- Năm 1997 : 5.163.093 triệu đồng.
- Năm 1998 : 5.128.425 triệu đồng.
- Năm 1999 : 5.025.620 triệu đồng.
62
- Năm 2000 : 6.159.608 triệu đồng.
63
Bảng 6: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO BHXH VIỆT NAM QUẢN
LÝ TỪ QUÝ IV/1995 ĐẾN NĂM 2000
S
Đơn vị
Quý
T
Chỉ tiêu
tính
IV/95
1996
1997
1998
1999
2000
T
1 Số đơn vị SDLĐ
Đơn vị
18.566
30.789
34.815
49.628
59.176
61.577
2 Số LĐ tham gia
2.276
2.821
3.162
3.355
3.579
3.843
Nghìn
BHXH
ng ười
-
112,1
106,1
106,7
107,4
- % so với năm
%
-
trước
3 Số thu BHXH
Tỷ đồng
395,0
2.569,7
3.445,6
3.876,0
4.186,0
5.215,2
-
- % so với năm
%
-
134,1
112,5
108,0
124,6
trước
4 T ỷ lệ thu so với chi
%
34,2
54,4
59,9
65,9
70,2
70,5
5 Chênh lệch thu -
Tỷ đồng
353,0 2.186,5
2.852,1
3.124,4 3.245,6 3.974,7
chi BHXH
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 6 cho ta thấy, kết quả nổi bật trong công tác thu
nộp BHXH từ 1/10/1995 đến năm 2000 là số lao động tham gia và
số thu BHXH mỗi năm một tăng lên, năm sau cao hơn năm trước.
Phân tích các chỉ tiêu cho ta thấy như sau:
- Chỉ tiêu số 1 và 2 là: nếu cuối năm 1995 cả nước có 2,2
triệu lao động tham gia BHXH thì đến năm 2000 con số này đã
lên tới 3,8 triệu lao động, tăng 1,6 triệu lao động (chưa kể mỗi
năm có khoảng 15 vạn người nghỉ việc) và bằng khoảng 10% lực
lượng lao động xã hội. Điều đó cho thấy, việc mở rộng đối tượng
tham gia BHXH đến các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên cùng với chính sách
thu BHXH phù hợp nên số các đơn vị sử dụng lao động lẫn người
lao động tham gia BHXH đã ngày một tăng. Tuy nhiên, con số
10% lực lượng lao động tham gia BHXH so với các nước còn ở
mức rất thấp, ví dụ: Malaysia : 90%, Mỹ : 95%... cùng với đó là
tốc độ gia tăng số lao động tham gia BHXH hàng năm còn chậm
và ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng lên từ 6,1% năm 1998 lên
64
7,4% năm 2000. Qua tham khảo số liệu cho thấy, số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh có tốc độ
tăng cao nhất, cụ thể là: năm 1995 có 30.063 người, năm 1996 có
56.280 người, năm 1997 có 84.058 người, năm 1998 có 122.685
người, năm 1999 có 125.279 người và năm 2000 có 206.890
người, bình quân tăng 47,1%/năm. Tiếp đến là tốc độ tăng của lao
động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn vốn đầu tư nước ngoài: năm 1995 có 78.791 người, năm
1996 có 125.889 người, năm 1997 có 214.596 người, năm 1998 có
242.108 người, năm 1999 có 361.522 người và năm 2000 có 369.857 người, bình quân tăng 36,2%/năm.
- Bên cạnh sự tăng lên về số lao động tham gia BHXH thì
cũng chính nhờ chính sách thu BHXH phù hợp với điều kiện thu
nhập và tiền lương của người lao động còn thấp mà số thu BHXH
ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước được thể hiện rõ nét ở
chỉ tiêu số 3. Thông qua chỉ tiêu này ta thấy, nếu năm 1996 số thu
đạt 2569,7 tỷ đồng thì sau 5 năm, năm 2000 số thu đã lên tới
5215,2 tỷ đồng, tăng 103% so với năm 1996. Nếu so với năm
1994 là năm trước khi bước vào thời kỳ cải cách chính thức hệ
thống BHXH ở nước ta thì các năm 1999 và năm 2000 đều có số
thu tăng gấp hơn 10 lần. Tuy vậy, tỷ lệ tăng thu BHXH năm sau
so với năm trước giảm dần từ 34,1% năm 1997 xuống còn 8% năm
1999 nhưng nhanh chóng được khắc phục bằng tỷ lệ tăng thu
24,6% năm 2000 so với năm 1999. Sự sụt giảm tốc độ tăng thu
BHXH giai đoạn 1997 - 1999 phải chăng là do tình hình kinh tế
trong nước và thế giới có nhiều biến động đặc biệt là ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Mặc dù vậy, thu
BHXH hàng năm vẫn đạt vượt mức kế hoạch, điển hình là năm
1997 thu đạt vượt mức 24,4 % kế hoạch đặt ra. Điều đó thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của các cán bộ, công chức ngành BHXH, sự
quan tâm chỉ đạo sâu sát và kịp thời của BHXH Việt Nam và các
cấp uỷ Đảng, Chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Cũng
nhờ vậy mà tình hình công nợ tuy có phát sinh nhưng ngày càng
65
giảm, đã rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH phải nộp của
các đơn vị sử dụng lao động từ 73 ngày năm 1995 (ứng với 20,1%
số nợ so với tổng số phải thu) xuống còn 38 ngày năm 2000 (ứng
với 10,4% số nợ so với tổng số phải thu theo số liệu báo cáo
nhanh của BHXH Việt Nam). Mục tiêu trong những năm tới là
phải phấn đấu tiếp tục làm giảm số chiếm dụng này xuống mức
thấp hơn nữa.
- Chỉ tiêu số 4 đã khẳng định rõ hơn những kết quả đạt được
trong công tác thu nộp BHXH thời gian qua, đó là tỷ lệ thu BHXH
từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động so với tổng chi ngày càng tăng từ 34,2% của quý IV/1995 lên 70,5%
năm 2000. Điều đó nói lên rằng, công tác thu nộp BHXH đã góp
phần quan trọng vào việc hình thành được quỹ BHXH tập trung,
hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, làm giảm gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nước trong việc chi trả các chế độ BHXH
đồng thời tạo điều kiền cho cơ quan BHXH Việt Nam chủ động
trong việc số tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng trong quỹ
BHXH vào đầu tư tăng trưởng quỹ. Số tiền này được hình thành
từ khoản chênh lệch thu - chi quỹ BHXH hàng năm thể hiện ở chỉ
tiêu số 5 và được phản ảnh rõ nét trong đồ thị dưới đây:
ĐỒ THỊ CHÊNH LỆCH THU – CHI QUỸ BHXH
(từ quý IV/1995 đến năm 2000)
3974.7
Số tiền (Tỷ đồng) 4000
3500
3245.6
3124.4
2852.1
3000
2500
2186.5
2000
1500
1000
353
500
0
IV/1995
1996
1997
1998
1999
2000
66
Qua đồ thị chênh lệch thu - chi quỹ BHXH ở trên ta thấy, khoản
chênh lệch này tăng lên qua các năm từ 2.186,5 tỷ đồng năm 1996
lên 3.974,7 tỷ đồng năm 2000, tăng bình quân hàng năm là 447,1
tỷ đồng. Đây là kết quả rất đáng mừng trong thời kỳ đổi mới cơ
chế quản lý BHXH Việt Nam, nó đã tạo cho quỹ BHXH một
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi ngày càng lớn, một phần trong đó sẽ
được đem vào đầu tư sinh lời và lại tạo ra một nguồn thu mới cho
Năm Đạt được những kết quả trên trước hết là nhờ sự cố gắng nỗ
quỹ BHXH.
lực của công nhân viên chức toàn ngành, mà trước hết là những người trực tiếp làm công tác thu nộp, ngoài ra còn do các nguyên
nhân chính sau đây:
- Chỉ thị 15/CP ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng
cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH đã có tác dụng tích
cực trong việc thúc đẩy sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính
quyền các cấp đối với công tác BHXH, đặc biệt là công tác thu. Ở
hầu hết các địa phương, việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm
đóng BHXH cho người lao động được quy định là một trong các
tiêu chuẩn cơ bản để xét danh hiệu Chi bộ, Đảng bộ trong sạch
vững mạnh và các hình thức khen thưởng khác.
- BHXH các tỉnh, thành phố đã kết hợp công tác giải quyết
chế độ, chính sách BHXH với công tác thu nộp theo nguyên tắc có
đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi BHXH, vì vậy đã làm
tăng thêm ý thức trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động
trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH.
- Việc triển khai công tác cấp sổ BHXH nhằm ghi nhận quá
trình làm việc và đóng BHXH của người lao động đã tạo được
niềm tin cho người lao động, cũng thông qua công tác này BHXH
các tỉnh, thành phố đã phát hiện kịp thời các trường hợp khai giảm số lao động và quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động,
tạo điều kiện truy thu một số lượng lớn tiền đóng BHXH còn nợ
đọng hoặc bỏ sót.
67
- Công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra và thông tin
tuyên truyền đã được chú ý đẩy mạnh góp phần nâng cao hiệu quả
thu nộp và ý thức thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của người lao
động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác thu nộp BHXH
như đã nêu ở trên, trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế cần khắc phục, cụ thể:
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động
phải tham gia BHXH và nguồn thu theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian qua, tuy số người đóng BHXH có tăng hàng năm nhưng so với tổng số lao động trong diện phải tham gia BHXH
theo quy định mới đạt 86%, riêng số lao động làm việc trong khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH mới đạt 40%, còn
một lực lượng lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả người
lao động đang làm việc trong khu vực sản xuất nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp chưa được tham gia BHXH. Kết quả thu
BHXH mới chỉ đạt khoảng 90% so với tổng số phải thu, nhiều
doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn có hiện tượng khai giảm
quỹ tiền lương, số lao động tham gia BHXH và chốn nộp BHXH
dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng
hoặc không ký hợp đồng lao động... Điều đó cho thấy, mạng lưới
BHXH chưa vươn tới được toàn bộ số lao động trong toàn xã hội.
Vì vậy trong những năm tới, nước ta cần có nhưng giải pháp để
tăng nhanh số người tham gia đóng BHXH, nhằm đảm bảo quyền
lợi cho mọi người lao động.
- Mức thu BHXH ở nước ta còn thấp so với nhiều nước, cộng
với tình trạng nợ đọng tiền BHXH vẫn còn lớn, tính đến nay số nợ
đọng lên tới gần 490 tỷ đồng chiếm khoảng 10 - 11% so với tổng
số phải thu. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ làm nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn, trước hết là thiếu nguồn chi trả cho
người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người
lao động.
68
- Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người
lao động nói riêng còn bị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt
của BHXH, còn có nhiều người nhầm lẫn giữa BHXH với BHTM.
- Trình độ của cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống
BHXH Việt Nam nói chung, cán bộ làm công tác thu nói riêng còn
bất cập; còn hạn chế cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn năng lực
công tác; chưa năng động, sáng tạo; còn làm việc theo lối hành
chính, chưa quen với cách làm việc như hoạt động của một ngành
dịch vụ; còn thiếu cán bộ nghiên cứu, đề xuất chính sách và hoạch
định chiến lược phát triển lâu dài, nên chưa đáp ứng kịp với tiến trình đổi mới sự nghiệp BHXH.
- Chính sách BHXH trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ,
thay đổi nhiều lần và vẫn còn một số nội dung chưa hợp lý cho
nên cần được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng thành luật BHXH
để tập trung thống nhất quản lý nhằm tổ chức thực hiện có hiệu
quả.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn nghèo nàn và thiếu
thốn. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý trong lĩnh
vực này hiện nay chưa có, các công việc thuộc nghiệp vụ chủ yếu
vẫn làm thủ công là chính, máy vi tính được trang bị còn ít, các
công nghệ phần mềm đang còn trong giai đoạn nghiên cứu thử
nghiệm chưa được áp dụng rộng rãi.
- Hệ thống BHXH Việt Nam chưa có mối quan hế chặt chẽ
với các nước khác. Điều này làm hạn chế khả năng phát triển,
thiếu thông tin, khó khăn trong việc hiện đại hoá ngành.
3.2. Công tác đầu tư tăng trưởng quỹ
Mục tiêu hoạt động của quỹ là tự cân đối thu - chi do đó quỹ
BHXH luôn luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi trả cho
các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền tồn tích này (lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng
trong quỹ BHXH) được phép đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH theo
quy định tại Mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg về
69
việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam,
như sau:
- Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân
hàng thương mại của Nhà nước.
- Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ Hỗ trợ Đầu tư
Quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Đầu tư vào một số dự án lớn và doanh nghiệp lớn của Nhà
nước có nhu cầu về vốn được Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Thực hiện Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998
của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam về tiến hành các hoạt động đầu tư tăng trưởng. Tính đến ngày 31/12/1999, BHXH Việt
Nam đã cho vay được 10.628.002 triệu đồng. Cụ thể như sau:
Bảng 7: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA QUỸ BHXH
(tính đến 31/12/1999)
STT Đơn vị vay Số tiền Cơ cấu đầu
(triệu đồng) tư
(%)
1 Ngân sách Nhà nước 1.087.636 10,2
2 Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc 4.200.000 39,5
gia
3 Ngân hàng đầu tư 2.000.000 18,8
4 Các ngân hàng thương mại 2.425.000 22,8
5 Mua tín phiếu, trái phiếu 915.366 8,7
Cộng 10.628.002 100,0
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu số 7 ta thấy, trong cơ cấu đầu tư vào các
lĩnh vực, đơn vị thì đầu tư vào Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia chiếm
tỷ trọng lớn nhất bằng 39,5% so với tổng số tiền đầu tư. Và phần
lớn các dự án đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH đều theo sự chỉ
định của Thủ tướng Chính phủ, kể cả tổng mức đầu tư, lãi suất,
thời hạn vay... Vì vậy, mức lãi suất thực hiên thấp, bình quân chỉ
6- 7%/ năm, có năm thấp hơn cả tỷ lệ trượt giá (năm 1998 trượt
70
giá 9,2%/ năm). Tổng số tiền lãi thu được tính đến hết năm 1999
là: 1.351.488 triệu đồng. Với kết quả này, quỹ BHXH đã có tác
dụng tích cực góp phần vào việc phát triển các lĩnh vực kinh tế -
xã hội của đất nước.
Về sử dụng lãi đầu tư: Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày
26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ tiền sinh lời do hoạt
động đầu tư quỹ BHXH được phân bổ như sau:
- Được trích 50% trong 5 năm để bổ xung vốn đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất của toàn hệ thống BHXH.
- Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương
thực tế toàn ngành.
- Phần còn lại bổ xung vào quỹ BHXH để bảo toàn và tăng
trưởng quỹ.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt
Nam đã sử dụng tiền sinh lời do đầu tư tăng trưởng đúng mục đích
là xây dưng cơ sở vật chất của toàn ngành và trích lập quỹ phúc
lợi, quỹ khen thưởng. Ngoài các khoản chi trên, phần còn lại của
lợi nhuận đầu tư được nộp vào quỹ BHXH.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được của công tác đầu tư tăng
trưởng quỹ, trong thời gian qua cũng còn một số vấn đề tồn tại:
- Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật
lãi suất của thị trường. Hầu hết lãi suất được hình thành theo sự
chỉ định của Chính phủ và thường là lãi suất thấp. Theo em để
đảm bảo việc đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả, vấn để đầu tư
quỹ nên phân ra 2 lĩnh vực như sau:
+ Nếu cho Ngân sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư
Quốc gia vay theo sự chỉ định của Chính phủ thì có thể thực hiện
lãi suất thấp, ưu đãi dưới mức cho vay trên thị trường. Vì Ngân
sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia vay không phải là để kinh doanh, mà để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế
quốc dân, hoặc chi tiêu cho mục đích của Chính phủ.
+ Nếu cho các ngân hàng thương mại vay thì phải theo lãi
suất thị trường. Vì các ngân hàng thương mại vay là để kinh
71
doanh lấy lãi. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại
theo thị trường, trong khi đó lãi suất đi vay của quỹ BHXH lại
theo lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất đi vay trên thị trường. Khoản
lợi nhuận siêu ngạch đó các ngân hàng thương mại được hưởng,
gây thiệt hại đến quỹ BHXH của người lao động.
- Việc phân bổ vốn đầu tư vào các dự án cũng không theo yêu
cầu của quy luật cung cầu về vốn trên thị trường. Lẽ ra, theo yêu
cầu của của quy luật vận động về vốn trên thị trường thì vốn phải
vận động từ nơi thừa (quỹ BHXH) đến các nơi thiếu vốn, cần vốn
để sản xuất kinh doanh. Nhưng trong các năm qua, vốn đầu tư của quỹ BHXH phần lớn lại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Nhiều lĩnh
vực đầu tư đang có lợi nhuận cao, khả năng rút vốn thuận lợi th ì
quỹ lại không được đầu tư. Bản thân các ngân hàng thương mại
biết là có biểu hiện đọng vốn, song vì lãi suất vay quá thấp nên
vẫn cứ vay của quỹ BHXH, gây nên tình trạng thiếu vốn giả tạo
trên thị trường.
4. Đánh giá chung
Trên đây là tình hình thu nộp BHXH từ quý IV/1995 - 2000
của BHXH các tỉnh, thành phố và toàn ngành đã đạt được trong
thời kỳ đổi mới của đất nước. Những kết quả trên tuy chưa nhiều
nhưng có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó đã chứng minh và
khẳng định được việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo cơ
chế mới, việc tập trung thống nhất cơ quan BHXH vào một đầu
mối, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta. Cho nên đã bước đầu hướng hoạt
động sự nghiệp BHXH Việt Nam dần dần phù hợp với bản chất
của nó trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đồng thời, nó cũng thể hiện được sự
đúng đắn trong tư duy đổi mới và bản chất nhân văn, xuyên suốt
mọi chính sách, chế độ BHXH của Đảng và Nhà nước ta tất cả là
vì con người, vì người lao động nhằm đảm bảo công bằng và an
72
sinh xã hội. Vì vậy, đã thực sự phát huy được tác dụng và đi vào
cuộc sống. Để làm tốt hơn nữa những chính sách BHXH theo Chủ
trương, Đường lối cả Đảng và Nhà nước đã vạch ra, nhằm đem
việc thực hiên các chế độ BHXH đến với mọi người lao động, cần
thiết phải có những định hướng chiến lược cũng như các giải pháp
phù hợp cho từng giai đoạn, từng thời kỳ để khắc phục những tồn
tại hạn chế, phát huy những ưu điểm đạt được trong công tác
BHXH những năm tới.
PHẦN THỨ BA MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NỘP VÀ QUẢN LÝ QUỸ BHXH I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN
1. Bài học kinh nghiệm
1.1. Từ hoạt động BHXH của các nước trên thế giới
Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới có hoạt động bảo
hiểm xã hội phát triển, cũng như ở các nước mà các chính sách về
bảo hiểm xã hội được thực hiện tốt chúng ta có thể học hỏi được ở
một số vấn đề sau:
- Việc xây dựng mô hình bảo hiểm xã hội phải phù hợp với
các điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH
có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và
tính hiệu quả của các cơ chế và chính sách và biện pháp thu
BHXH.Cũng có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ
73
thể chế kinh tế xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào
ngân sách Nhà nước ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc
ít hay nhiều, điều này còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi
giai đoạn phát triển của quốc gia.
- Qua kinh nghiệm một số nước phát triển cho thấy việc đề ra
các chính sách BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có
thể thu hút được ngày càng nhiều hơn các đối tượng tham gia
BHXH, vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an toàn
của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH căn cứ vào mức độ
đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào mức lương của người lao động dùng làm căn
cứ đóng BHXH trước khi về hưu.
- Qua kinh nghiệm của Thuỵ Điển trong việc sử dụng các
nguồn thu thuế từ lương của người lao động và chủ sử dụng lao
động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân
sống và làm việc tại Thuỵ Điển và công dân Thuỵ Điển làm việc ở
nước ngoài nhưng có đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế đóng
góp như vậy chính phủ Thuỵ Điển cho rằng không cần thiết có
một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện chi
BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập cá nhân
đảm bảo sự công bằng xã hội, và vì vậy những người được hưởng
các chế độ BHXH đều nhận được các khoản phúc lợi xã hội vượt
quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây dựng hệ thống BHXH
theo kiểu Thuỵ Điển chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
phát triển, những nước có mức phúc lợi xã hội cao. Trước đây,
chúng ta đã xây dựng mô hình BHXH gần tương tự như mô hình
của Thuỵ Điển, tuy vậy nó đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam bởi sự bao cấp quá lớn của ngân
sách Nhà nước và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế.
Như vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phải phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng
thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường thì việc tăng cường khả năng đóng góp của người lao
74
động, người sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc
vào ngân sách Nhà nước là một trong những hướng chính trong
xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH ở Việt Nam
hiện nay.
1.2. Từ hoạt động BHXH thực tiễn trong nước
Thứ nhất: nắm chắc chủ trương chính sách BHXH của Đảng,
Nhà nước và quy định quản lý của ngành để tranh thủ sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự phối hợp giúp đỡ
của các ngành liên quan, đặc biệt gắn kết chặt chẽ mối quan hệ ba
bên: người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH tạo sự phối hợp đồng bộ, kịp thời trong việc tổ chức thu nộp và
giải quyết các chế độ BHXH.
Thứ hai: Thực hiện đúng điều lệ BHXH cùng với các văn bản
quy định quản lý thu, chi BHXH của BHXH Việt Nam và các Bộ,
ngành trung ương. Tổ chức xét duyệt và chi trả các chế độ BHXH
kịp thời, đầy đủ, tận tay đối tượng được hưởng, thực sự là chỗ dựa
tin cậy của người lao động khi tham gia BHXH.
Thứ ba: Tăng cường phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, các ngành chức năng trong việc kiểm tra xử phạt những
trường hợp vi phạm Bộ luật lao động về BHX H, kiến nghị với các
cấp có thẩm quyền có biện pháp ràng buộc đối với các đơn vị sử
dụng lao động cố tình né tránh không tham gia BHXH, nhất là các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ tư: Xét duyệt và thực hiện đúng chế độ chính sách
BHXH, tạo sự công bằng giữa những người tham gia BHXH, đảm
bảo có đóng BHXH thì được hưởng thụ, không gây phiền hà cho
người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời tăng cường
kiểm tra không để tiêu cực xảy ra làm thất thoát ngân quỹ.
Thứ năm: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng chế độ chính sách BHXH đến với người lao động để mọi người hiểu:
tham gia BHXH là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi mang tính
xã hội nhân đạo sâu sắc. Chính sách BHXH rất đa dạng, phong
phú và phức tạp, vì vậy cần nghiên cứu để xem xét, giải quyết
75
những kiến nghị, thắc mắc của đối tượng một cách thoả đáng về
chế độ và quyền lợi BHXH, vừa đảm bảo đúng chính sách, vừa
đảm bảo quyền lợi của người được hưởng đúng với sự cống hiến
của họ, trách quan liêu cửa quyền, sách nhiễu trong việc giải
quyết chính sách BHXH.
Thứ sáu: Giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ
ngành là yếu tố quyết định thắng lợi cho mọi hoạt động; đề cao
trách nhiệm và tinh thần phục vụ của ngành, kiện toàn tổ chức,
sắp xếp phân công cán bộ hợp lý; chú trọng công tác đào tạo xây
dựng đội ngũ cán bộ, viên chức có đủ phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chăm lo đời sống của cán bộ, viên chức
thật sự ổn định, yên tâm công tác, gắn bó với ngành; đẩy mạnh
các phong trào thi đua, thực sự tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ
việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trên giao.
2. Những định hướng cơ bản
Trong thời gian tới, BHXH Việt Nam cần được phát triển
theo những định hướng sau:
- Tiếp tục xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống pháp luật về
BHXH. Trước mắt cần xúc tiến ngay việc xây dựng Luật BHXH
để tiến tới quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này bằng pháp luật.
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi người lao động,
dù họ tham gia lao động trong bất cứ ngành nghề nào, thuộc thành
phần kinh tế nào,miễn là họ tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ
BHXH như luật định.
- Thực hiện đầy đủ các hình thức BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện để khuyến khích những người giầu có tích cực tham gia
BHXH, thực hiện một bước phân phối lại thu nhập trong cộng
đồng, góp phần đảm bảo công bằng xx hội và an sinh xã hội.
- Bộ máy quản lý cần tinh giảm, gọn nhẹ, đa chức năng trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và quy chế
làm việc cụ thể.
- Cán bộ, công nhân viên chức của ngành cần được đào tạo và
đào tạo lại một cách cơ bản và hệ thống cả về chuyên môn nghiệp
76
vụ, lẫn nhận thức tư tưởng, đạo đức, thấm nhầm sâu sắc quan
điểm phục vụ người lao động. Làm tốt công tác cán bộ từ khâu
đào tạo, tuyển dụng, sử dụng đến khâu đãi ngộ để phát huy hết
năng lực, sở trường của họ.
- Áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý Nhà
nước, đặc biệt là trong quản lý nghiệp vụ sự nghiệp BHXH như
quản lý các đối tượng tham gia BHXH, quản lý thu – chi BHXH,
quản lý tài chính, thống kê, kế toán BHXH...
- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ cho
ngành, đảm bảo nganh tầm thời đại và hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
- Thực hiện tốt các biện pháp bảo toàn và đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH.
- Mở rộng mối quan hệ mật thiết giữa BHXH Việt Nam với
các cơ quan hữu quan, với các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Đoàn
thể từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường và mở rộng mối
quan hệ hợp tác giữa BHXH Việt Nam với các tổ chức BHXH, An
sinh xã hội quốc tế, trước mắt là hội nhập vào các nước trong khu
vực.
- Tăng cường quyền lực Nhà nước và các chế tài pháp lý cho
BHXH Việt Nam trong việc quản lý Nhà nước về BHXH. Đồng
thời làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước về BHXH.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NỘP
QUỸ BHXH
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH.
Kiểm soát chặt chẽ thu, chi BHXH là hết sức cần thiết. Do đó
công tác thu phải được hoàn chỉnh từng bước bằng việc theo dõi
danh sách đối tượng tham gia đóng BHXH, biến động của đối
tượng và mức đóng góp. Cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến phương
pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ nhằm thu đúng, thu
đủ và kịp thời tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, các
đơn vị sử dụng lao động theo đúng pháp luật, nhất là khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh. Chỉ có như vậy mới thúc đẩy và cải thiện
77
được tình hình thu BHXH, đáp ứng nhu cầu về BHXH của người
lao động trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay.
Trên cơ sở thực hiện đổi mới sự chỉ đạo điều hành nền kinh tế
- xã hội của chính phủ BHXH Việt Nam cũng cần phải đổi mới sự
chỉ đạo, điều hành thì mới đạt được kết quả như mong muốn. Sự
đổi mới ở đây chính là sự phân công, phân cấp rõ về chức năng,
nhiệm vụ giữa cơ quan BHXH ở trung ương và BHXH các tỉnh,
thành phố nhằm nâng cao trách nhiệm, chiến lược quản lý và phục
vụ ngày càng tốt hơn nhưng vẫn đảm bảo thống nhất về hướng dẫn
chính sách, chế độ BHXH của Nhà nước và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan BHXH Việt Nam.
Trong những năm tới, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
quản lý chặt chẽ và không ngừng nâng cao quỹ BHXH; tập trung
thu ngoài quốc doanh theo quy định của Bộ luật lao động, kiện
toàn bộ máy: sắp xếp, bố trí, sử dụng hợp lý nhân sự, đào tạo và
đào tạo lại, hoàn chỉnh cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng tin
học vào công tác quản lý BHXH, tăng cường công tác thi đua,
thanh tra và kiểm tra, tham gia vào phát triển kinh tế; bảo toàn và
tăng trưởng quỹ. Về lâu dài, quỹ BHXH nên được quản lý theo
dõi riêng theo từng loại tương ứng với từng chế độ BHXH, kể cả
phần tích luỹ từ mỗi quỹ, không sử dụng lẫn lộn quỹ này để bù
đắp sự thiếu hụt của quỹ khác. Sở dĩ làm như vậy là nhằm để dễ
dàng cho việc theo dõi, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động
của từng quỹ mà vẫn đảm bảo sự thống nhất quản lý của cơ quan
BHXH Việt Nam.
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Xuất phát từ phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, vấn
đề hoàn thành hệ thống pháp luật về BHXH là rất cần thiết tuy
nhiên cần thực hiện từng bước cụ thể: - Để có thể có được một hệ thống pháp luật về BHXH đầy đủ
và đồng bộ thì trước hết là phải sắp xếp, rà soát lại toàn bộ các
văn bản pháp quy về hoạt động BHXH trước đây và hiện hành với
78
mục đích loại bỏ hoặc điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với nhu
cầu quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
- Nâng cao khả năng thực thi của các văn bản pháp lý trong
lĩnh vực BHXH. Muốn thực hiện được những điều này, ngoài sự
đóng góp xây dựng và hoàn thiện của các chuyên gia, cán bộ có
kinh nghiệm trong và ngoài ngành thì việc học tập kinh nghiệm
xây dựng khung pháp lý trong các văn bản quy định về BHXH của
các nước khác cũng là việc nên làm.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực BHXH cần
khẩn trương soạn thảo Luật BHXH để có thể tình quốc hội trong thời gian sớm nhất và đưa luật vào áp dụng điều chỉnh, hướng các
hoạt động BHXH đi theo đúng đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước.
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH.
Việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về
BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động có ý nghĩa hết
sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế
thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Đây không chỉ là
công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của nhiều
ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội. Nó bao gồm những nội dung
sau:
- Trước hết, đó là việc phải xác định rõ nội dung tuyên truyền.
Phải tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách
BHXH. Từ đó, người lao động hiểu được bản chất nhân văn, nhân
đạo của BHXH, họ có thể phân biệt rõ hơn sự khác nhau giữa
BHXH và các loại hình BHTM khác.
- Mặt khác, cũng phải tuyên truyền và giới thiệu cho họ về nội
dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được
hưởng. Đặc biệt cần phải nhấn mạnh nội dung "tham gia BHXH vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của người lao động". Ngoài ra
việc giải đáp những vướng mắc của người lao động trong quá
trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư, nguyện
79
vọng, các kiến nghị bổ sung sửa đổi những bất hợp lý về chế độ
BHXH cũng hết sức cần thiết và bổ ích.
Những nội dung nói trên cần phải được thể hiện bằng nhiều
hình thức, phương pháp phù hợp thì mới đạt được hiệu quả cao.
Như chúng ta biết, đối tượng tuyên truyền về BHXH là người lao
động và chủ sử dụng lao động nên phải sử dụng nhiều hình thức
tuyên truyền khác nhau mới có thể phù hợp với nhận thức tâm lý
và trình độ của họ. Đối với người lao động nên sử dụng nhiều
hình thức trực quan sinh động như truyền hình, tạp chí BHXH,
sách hỏi đáp về BHXH, tờ gấp giới thiệu về BHXH, các loại ấn phẩm tuyên truyền... Đặc biệt, các nội dung tuyên truyền cần được
biên tập cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn. Các ấn phẩm tuyên truyền cần
được phổ cập một cách rộng rãi đến tận người lao động và đơn vị
sử dụng lao động dưới dạng tặng phẩm tuyên truyền, cần có các
biện pháp tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở
nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người lao động và chủ sử
dụng lao động về BHXH.
Nhìn chung, việc nhận thức đúng đắn của người lao động và
chủ sử dụng lao động về ý nghĩa, tầm quan trọng của BHXH đòi
hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền về
BHXH cả về bề rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Nó đòi hỏi
sự phối hợp đồng bộ có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về
BHXH giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng,
hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan có liên quan trong xã
hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả như
mong muốn.
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động
ngành BHXH.
Việt Nam trên bước đường thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cần nhanh chóng tích cực đổi mới hiện đại hoá
mọi mặt công tác trong đó đặc biệt đáng quan tâm là công tác đào
tạo nguồn nhân lực. Đối với ngành BHXH, trong thời gian tới cần
80
cải tiến và đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực theo các
hướng sau:
- Phương châm trong công tác cán bộ là giảm nhẹ về số lượng
nhưng nâng cao về chiến lược để làm việc có hiệu quả hơn đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ khi số lượng đối tượng BHXH tăng
lên nhiều. Và để theo kịp được sự phát triển chung của toàn xã
hội, ngoài các phương tiện hiện đại, các phương pháp quản lý tiên
tiến cần được áp dụng đồng bộ thì ngoại ngữ, tin học cũng là việc
cần thiết cho mỗi cán bộ công chức nhằm làm chủ các phương tiện
và mở cửa "kho tàng tri thức" của nhân loại nói chung, về BHXH nói riêng. Do đó trên bước đường hiện đại hoá, công tác đào tạo
bổ sung, đào tạo nâng cao chắc chắn sẽ có vai trò ngày càng cần
thiết. Đặc biệt là đào tạo các chuyên gia giỏi về tin học, nhất là về
phần mềm; các chuyên gia về chính sách BHXH; các chuyên gia
về pháp lý; các chuyên gia về tính toán BHXH; các cán bộ kiểm
tra. Từ đó nhằm nâng cao trình độ cả về chuyên môn và chính trị
cho cán bộ đảng viên; rèn luyện phẩm chất đạo đức người công
chức để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự yêu ngành, yêu nghề, có
trách nhiệm với công việc được giao và vì sự nghiệp chung của
BHXH.
- Công tác tuyển dụng cán bộ cần xem xét đến trình độ, học
vấn và đặc biệt là những kiến thức đó phải phù hợp với công tác
được giao. Ngoài ra, để có thể thu hút những người có phẩm chất
đạo đức tốt và năng lực chuyên môn giỏi giúp họ yên tâm công tác
thì BHXH cũng nên kiến nghị với Nhà nước có những chế độ đãi
ngộ và sự hỗ trợ giáo dục đào tạo thoả đáng hơn.
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH.
Bảo hiểm xã hội là một hoạt động sự nghiệp, không mang tính
kinh doanh như các loại hình bảo hiểm khác. Vì vậy, việc mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH là một chủ trương mang
tính xã hội cao và nhân đạo sâu sắc của Nhà nước ta. Nó bao gồm
những vấn đề sau:
81
- Mục tiêu lâu dài của BHXH là mọi người đều được tham gia
BHXH nhằm thực hiện bình đẳng xã hội giữa các thành phần kinh
tế. Trước mắt, có thể thực hiện BHXH cho lao động trong các
doanh nghiệp có dưới 10 lao động, bỏ quy định doanh nghiệp từ
10 lao động trở lên và hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên mới
tham gia BHXH bắt buộc, mà quy định doanh nghiệp có thuê
mướn lao động và người lao động được trả lương ổn định thì phải
tham gia BHXH, từng bước mở rộng diện áp dụng cho lao động
tiểu, thủ công nghiệp, lao động trong nông nghiệp và nông thôn,
lao động phi kết cấu ... theo các loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện.
- Để cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện có hiệu
quả chính sách BHXH, thiết nghĩ ngành BHXH cần sớm ban hành
luật BHXH Việt Nam với những điều khoản áp dụng chung cho tất
cả các đối tượng lao động, nhanh chóng xây dựng một cơ chế gọn
nhẹ thông thoáng, thuận tiện để người lao động làm việc ở mọi
ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi tổ chức đều được tham gia BHXH.
Đồng thời từng bước hoàn thiện và bổ sung các chế độ BHXH, đa
dạng hóa các hình thức và loại hình tham gia bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt là việc xác định tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ, tuổi nghỉ
hưu giữa các loại lao động có ngành nghề khác nhau, trong đó cần
nghiên cứu tuổi nghỉ hưu của lao động "chất xám" của các nhà
quản lý và việc nghiên cứu triển khai 2 chế độ BHXH hưu trí, tử
tuất cho người lao động ở khu vực nông thôn, chế độ BHXH thất
nghiệp cho người lao động trong thời gian tạm thời mất việc nhằm
đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ.
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi.
Quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước - chi sau, nên
phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn và phát triển quỹ trong một cơ chế luật pháp ít rủi ro nhất. Với tư cách là quỹ của người lao
động, quỹ tài chính tập trung, một tổ chức tài chính vô vị lợi, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, nguồn vốn của quỹ cần được
82
hoà vào dòng chảy của ngân sách Quốc gia, tham gia tích cực có
chọn lọc vào thị trường tài chính:
- Trước hết, cần tạo lập những quy định mang tính pháp lý và
cơ chế tài chính để ngân quỹ của BHXH có thể tham gia đầu tư tài
chính theo phương thức an toàn, ít rủi ro nhất và trong thị trường
có sự bảo đảm, đặc biệt là việc duy trì và kiềm chế lạm phát ở
mức thấp nhằm tránh hiện tượng số tiền đầu tư từ ngân quỹ nhàn
rỗi lại nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lạm phát hàng năm.
Cần phân biệt đầu tư tài chính của BHXH với đầu tư tài chính của
BHTM, lợi nhuận thu được từ đầu tư ngân quỹ BHXH hoàn toàn không mang tính lợi nhuận thương mại và được dùng để bảo tồn,
phát triển quỹ, không phải là đối tượng chịu thuế. BHXH có thể
mua bảo hiểm để bảo hiểm, bù đắp và chia sẽ rủi ro trong đầu tư
tài chính.
- Thứ hai, cần tính toán một cách có căn cứ khoa học số ngân
quỹ tối đa có thể dùng để đầu tư tài chính, thời hạn cần thiết và an
toàn cho đầu tư. Cơ quan BHXH nên có những kiến nghị với
chính phủ trong việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư nhằm nâng cao
hiệu quả. Có thể xem xét tới việc cho một số Bộ, ngành, hoặc
tổng công ty lớn trực tiếp vay vốn để thực hiện vào các dự án,
phát triển cơ sở hạ tầng xây dựng bởi các nhu cầu này sẽ không
ngừng tăng lên trong những năm tới và khả năng thu hồi vốn, có
lãi là tương đối cao. Tuy vậy, đối với mỗi dự án luôn cần có sự
thẩm định kỹ lưỡng về đơn vị được vay vốn và khả năng thu hồi
vốn của dự án. Đối với mỗi quyết định cho vay như vậy sẽ được
trình Chính phủ trước khi thực hiện. Còn phần dư của ngân quỹ
cần đảm bảo khả năng chi trả cho to àn hệ thống trong mọi thời
điểm với mức độ cao nhất. Đây là việc làm khó, nhưng hoàn toàn
có thể làm được và phải tính toán thận trọng bằng phương pháp nghiệp vụ và thống kê kinh nghiệm
3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động là một
trong những mục tiêu hàng đầu, và đa dạng được các nhà quản lý
83
quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản
lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn
giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị, dưới
cùng một tiêu chuẩn thống nhất. Tạo ra phong cách làm việc khoa
học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự
kiểm tra và tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin
cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH... từ đó nâng
cao chiến lược phục vụ. Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công
nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần quan tâm đến
một số vấn đề sau: - Coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất
trong nghiệp vụ thu - chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng
với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng được hệ
thống xử lý số liệu BHXH có chiến lược, hiệu quả. Muốn vậy,
phải có sự phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương, giữa
các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau.
- Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng
ta phải mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm
đầu tư trang bị máy móc, thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào
tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm
trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các
nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: chuẩn hoá các mã quản lý, danh
mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính.
- Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu
cầu tự động hoá có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ
chính sách. Trong tương lai gần, hệ thống thông tin BHXH Việt
Nam cần được nối mạng toàn ngành, rút ngắn khoảng cách về
trình độ phát triển với các ngành nghề khác. Đồng thời thúc đẩy
tiến trình cải cách hành chính, nâng cao chiến lược hoạt động BHXH, góp phần đưa ngành BHXH Việt Nam lên một tầm cao
mới
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH
84
Với đặc thù là hoạt động mang tính xã hội và nhân đạo nên
việc hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế là hoạt động
hết sức cần thiết đối với cơ quan bảo hiểm xã hội. Trong điều kiện
mới được thành lập của BHXH Việt Nam, cộng với sự hỗ trợ từ
ngân sách Nhà nước còn lớn cho quỹ BHXH, chính vì vậy cần
tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và đẩy mạnh hơn nữa
hợp tác với các cơ quan, đoàn thể trong nước tạo điều kiện cho
thực hiện các hoạt động BHXH tốt hơn. Đẩy mạnh hơn nữa quan
hệ với các tổ chức BHXH, lao động quốc tế với mục đích trao đổi,
đào tạo cán bộ, chuyên gia để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm về công tác BHXH.
85
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đất nước đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá như hiện nay thì vấn đề người lao động
và các chế độ chính sách đối với người lao động ngày càng trở lên
quan trọng bởi nó không chỉ có ý nghía về mặt kinh tế m à còn có
ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội sâu sắc. Hơn thế nữa, sự mở ra
của nhiều thành phần kinh tế đã và đang gây không ít khó khăn
cho các nhà quản lý vĩ mô trong việc chăm lo cuộc sống và điều
kiện làm việc của người lao động. Để có thể giải quyết tốt vấn đề này, trong những năm vừa quan Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
quan tâm cho công tác BHXH. Từ đó giúp người lao động yên tâm
hơn trong công tác.
Qua 5 năm từ khi chính thức đi vào hoạt động, những kết quả
ban đầu mà BHXH Việt Nam đã làm được là rất đáng trân trọng,
góp phần giúp chính phủ giải quyết tốt các chế độ, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác BHXH cho người lao động. Trong
thời gian hoạt động vừa qua, BHXH Việt Nam đã chứng tỏ vai trò
quan trọng trong việc góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách
Nhà nước, tạo nguồn vốn khá lớn để đầu tư tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Ngoài ra, từ khi thực hiện cơ chế mới trong thu chi
BHXH cũng đã tạo ra một thói quen và nhận thức mới tốt hơn,
toàn diện hơn cho người lao động và người sử dụng lao động về
BHXH.
BHXH Việt Nam luôn được sự quan tâm chỉ đạo của chính
phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan nhưng vẫn không tránh
khỏi những khó khăn và hạn chế. Những khó khăn trong công tác
BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao
động và cả nguyên nhân chủ quan từ phía BHXH Việt Nam. Đó là sự thiết hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động đặc biệt
là trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, điều này dẫn đến nhiều thiếu hụt cho người lao động khi
có rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, nhiều chủ doanh nghiệp không thực
86
sự tuân thủ các quy định trong thực hiện nghĩa vụ về BHXH cho
người lao động mà họ sử dụng vì vậy càng làm tăng khó khăn cho
quỹ BHXH. Ngoài ra, các cơ chế và quy định cho đầu tư quỹ
BHXH chưa thực sự thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho
BHXH có thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo toàn và phát triển nguồn
quỹ.
Tuy có những khó khăn và hạn chế như vậy trong công tác
BHXH nhưng có thể khẳng định thuận lợi là cơ bản và nếu có sự
hỗ trợ hơn nữa của Chính phủ, các bộ ngành và đặc biệt là sự nỗ
lực của bản thân BHXH Việt Nam thì trong thời gian tới chúng ta tin tưởng các chính sách chế độ về BHXH cho người lao động sẽ
được thực hiện tốt hơn đáp ứng lòng mong mỏi và trông đợi của
hàng triệu người lao động Việt Nam sống trên mọi miền đất nước.
Từ đó góp phần tích cực, tạo điều kiện tăng thu cho quỹ BHXH
Việt Nam. Hơn thế nữa, việc làm tốt công tác BHXH cũng là sự
khẳng định trong tương lai không xa chúng ta có thể bắt kịp các
quốc gia khác trên thế giới không chỉ bằng thành tự kinh tế mà
còn bằng những giá trị đạo đức trong bảo vệ và tôn trọng quyền
lơị của người lao động, một trong những ưu việt của chế độ
XHCN mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
Bộ môn Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cảm
ơn thầy giáo Nguyễn Văn Định - Tiến sĩ, chủ nhiệm Bộ môn Kinh
tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ
nhân viên Trung tâm thư viện - trường Đại học Kinh tế Quốc dân
đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân
; NXB Thống kê - Hà Nội - 2000 -
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm - trường Đại học
Kinh tế Quốc dân; NXB Giáo dục - 1998
3. Giáo trình Thống kê bảo hiểm trường Đại học Kinh tế
Quốc dân; NXB Thống kê - Hà Nội 1996 -
4. Sách Hỏi - Đáp về BHXH; NXB Lao động - xã hội - 1999
5. Hệ thống các văn bản pháp quy về BHXH - BHXH Việt
Nam.
6. Tạp chí BHXH - số 1, 4 năm 1999 và các số năm 2000
88
MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH. ......................................... 4
1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH. ................................................ 4
1.2. Quá trình phát triển của BHXH. ...................................................... 6
1.3. Bản chất của BHXH ...................................................................... 17
1.4. Chức năng và tính chất của BHXH .. Error! Bookmark not defined.
1.5. Quỹ BHXH .................................................................................... 17
II. Thực trạng công tac thu nộp quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua. .................................................................................................. 35
2.1. Quy định về thu nộp quỹ BHXH Việt Nam ................................... 52
2.2. Tình hình thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay. ........................ 61
2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động BHXH trong và ngoài nước. .................................................................................................... 73
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH .. 73
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH. ............................... 77
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội. ........................ 78
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH. ................................... 79
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động ngành BHXH. ................................................................................................. 80
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH. ........................... 81
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi. .............................. 82
3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý. ..................... 83
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH ...................................... 84
Kết luận 86
Tài liệu tham khảo 35
89
90