Các Mô Hình Nuôi Cá

Chẽm - Nuôi Lồng

1. Nuôi cá chẽm trong lồng

Nuôi cá chẽm trong lồng đang được phát triển ở nhiều nước như Thái lan,

Indonesia, philippines, Hồng kông và Singapore. Các thành công của việc

nuôi cá chẽm trong lồng trên biển và trên sông đã có ý nghĩa cho việc phát

triển của nghề nầy.

a. Chọn ví trí nuôi lồng

Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như

trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế

chọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công

của nghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân

thành 3 nhóm yếu tố chính: (i) nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của

cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa

của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn

lồng; (ii) nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể...; và (iii) nhóm các

yếu về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế - xã

hội, luật lệ...

Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần thiết có:

 Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m. ít sóng to,

gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1

m/giây) nếu không sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá

hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.

 Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp

từ 0,2-0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn

thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.

 Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6 mg/lít, nhiệt độ 25-30 oC, độ mặn từ

27-33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi

công nghiệp, nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng

triều.

b. Thiết kế và xây dựng lồng

Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6 x 6 x 3 m và được thiết kế thành 4

ô để làm thành 4 lồng riêng biệt như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3 x 3 x 3 m.

Như thế sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từng lồng, đồng

thời với một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay lồng khi xử lý bệnh cá hay

xử lý rong to bẩn đóng trên lồng.

Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,... để làm lồng như

nhiều nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung

trên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15 cm. Khung đáy lồng

dùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ.

Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay

đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ cỡ cá 1-2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá

5-10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá

>25 cm dùng mắc lưới 4 cm.

Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gổ

của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy hay

không. Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi.

Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng

cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.

c. Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng

Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với

nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và

nuôi trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6-8 giờ) hoặc

buổi tối (8-10 giờ) khi nhiệt độ thấp.

Mật độ thả cá thường từ 40-50 con/m3. Sau 2-3 tháng nuôi cá đạt trọng

lượng 150-200g, lúc này giảm mật độ còn 10-20 con/m3. Tăng trưởng của

cá chẽm khi nuôi trong lồng ở những mật độ khác nhau được ghi ở bảng

5.1. Nên dành một số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá

giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông

qua việc chuyển đổi lồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.

Bảng 5.1: Tăng trưởng (g/con) hàng tháng của các chẽm nuôi lồng ở các

mật độ nuôi khác nhau (theo Sakares. W, 1982).

Mật độ (con/m2)

Thời gian nuôi (tháng)

16 24 32

67.8 67.8 67.8 0

132 138 139 1

225 229 226 2

263 268 264 3

326 332 312 4

381 385 359 5

499 487 455 6

d. Thức ăn và cách cho ăn

Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đương phải đương

đầu. Hiên tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cá chẽm.

Cá tạp được băm nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ), buổi

chiều (5 giờ) với tỷ lệ 10% trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng

chỉ cho ăn một lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá. Chỉ

cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước.

Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng

trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn

còn cao mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu

làm thức ăn có thể là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%.

Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩu phần

ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loại thức

ăn này vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn được trình

bày ở Bảng 5.2.

Bảng 5.2: Phân phối và khẩu phần thức ăn ẩm.

Thành phần Phần trăm (%)

Bột cá 35

Cám 20

Bột đậu nành 15

Bột bắp 10

Bột lá 3

Dầu mực (hoặc dầu cá) 7

Tinh bột khuấy hồ 8

Hỗn hợp Vitamin 2

e. Quản lý lồng cá

Cần phải thường xuyên theo dõi lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể

bị phá hại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá,... Nếu lồng bị hư

hỏng phải lập tức sửa chữa hoặc thay mới.

Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng

phù sa. Vấn đề này không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho

các vi sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thễ

bám vào,... những vật này có thể bám kín lưới làm giảm sự trao đổi nước có

thể gây "sốc" cho cá do oxy hòa tan thấp đồng thời tích tụ những chất cặn

bã. Chính vì thế sẽ nh hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.

Cho đến việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là phưong pháp

hiệu quả vá rẻ nhất. ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng

lồng lưới luân phiên nhau.