
vietnam medical journal n01&2 - january - 2020
150
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM
TIỀN GIANG NĂM 2019
Tạ Văn Trầm*
TÓM TẮT38
Đặt vấn đề: An toàn là nền tảng của chất lượng
trong chăm sóc sức khỏe. An toàn người bệnh là làm
giảm nguy cơ gây tổn hại không cần thiết cho người
bệnh. Mục tiêu: Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng
tới văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế tại
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang năm 2019.
Phương pháp: phương pháp nghiên cứu cắt ngang
mô tả, kết hợp định lượng với định tính. Kết quả: Kết
quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cho thấy vấn
đề về yếu tố nhân viên y tế như:Quy trình bàn giao và
chuyển bệnh giữa các khoa chưa đảm bảo an toàn;
Đào tạo, tập huấn về ATNB trong bệnh viện chưa hiệu
quả; Sức ép, khối lượng công việc lớn đối với bác sĩ và
điều dưỡng, yếu tố hệ thống như: Hệ thống báo cáo
chưa hoạt động chưa hiệu quả; Quá tải trong khám
chữa bệnh thiếu nguồn nhân lực bác sĩ; Thiếu một số
hướng dẫn liên quan đến ATNB và yếu tố người bệnh
như: Nhận thức của người bệnh và người nuôi bệnh,
sự quan tâm của họ vào chăm sóc y tế còn hạn chế,
ảnh hưởng đến văn hóa an toàn người bệnh, trong đó
yếu tố ảnh hưởng nhân viên y tế được cho là quan
trọng nhất. Kết luận:Cần đưa nội dung an toàn người
bệnh vào chương trình đào tạo hằng năm cho tất cả
nhân viên bệnh viện.
Từ khóa:
văn hóa an toàn người bệnh, nhân viên
y tế
SUMMARY
FACTORS AFFECTING THE PATIENT SAFETY
CULTURE OF HEALTH WORKERS AT TIEN
GIANG CENTRAL GENERAL HOSPITAL IN 2019
Background: Safety is the cornerstone of quality
in health care. Patient safety is to reduce the risk of
unnecessary harm to the patient.
Objective:
Analyze
some factors affecting the patient safety culture of
health workers at Tien Giang Central General Hospital
in 2019.
Methods:
descriptive cross-sectional
research method, quantitative and qualitative.
Results:
In-depth interviews and group discussions
revealed that the issue of health workers, such as the
process of handing over and transferring diseases
among departments, was not safe; Training and
training on inadequate safety in hospitals is not
effective; Pressure, large workload for doctors and
nurses, system elements such as: The reporting
system has not worked yet; Overloading in medical
examination and treatment with insufficient human
*Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang
Chịu trách nhiệm chính: Tạ Văn Trầm
Email: tavantram@gmail.com
Ngày nhận bài: 8.10.2019
Ngày phản biện khoa học: 17.12.2019
Ngày duyệt bài: 23.12.2019
resources for doctors; Lacking a number of guidelines
related to food safety and patient factors such as:
Awareness of patients and farmers, their interest in
health care is limited, affecting the safety culture of
patients, in which factors affecting health workers are
arguably the most important.
Conclusion:
It is
necessary to include patient safety content in the
annual training program for all hospital staff.
Keywords:
safety culture of patients, health workers
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
An toàn là nền tảng của chất lượng trong
chăm sóc sức khỏe. An toàn người bệnh là làm
giảm nguy cơ gây tổn hại không cần thiết liên
quan đến chăm sóc y tế. Theo các chuyên gia
hàng đầu trong lĩnh vực y tế hiện nay là bảo
đảm cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe an
toàn cho người bệnh [9]. Theo Tổ chức Y tế Thế
giới thách thức hàng đầu của ngành Y tế hiện
nay không phải là các kỹ thuật tiên tiến hiện đại
mà người bệnh được an toàn khi nhận các dịch
vụ sức khỏe. Trên thế giới thống kê cho thấy có
nơi lên đến hơn 16% người đến khám chữa
bệnh tại bệnh viện đã từng trải qua ít nhất một
lần các sự cố liên quan đến an toàn người
bệnh(8). Tổ chức Y tế Thế giới cũng dự báo rằng
các nước đang phát triển không thể tránh khỏi
sự cố và thậm chí số sự cố y khoa có thể cao
hơn các nước phát triển, những khó khăn về cơ
sở vật chất, trang thiết bị y tế, chất lượng thuốc,
nguồn nhân lực, chi phí cho hoạt động y tế (2),(4).
Tại Việt Nam một số sự cố y khoa xảy ra gần
đây gây sự quan tâm của toàn xã hội đối với
ngành Y tế. Những nhân viên y tế liên quan trực
tiếp tới sự cố cũng là nạn nhân trước những áp
lực của dư luận xã hội và bị ảnh hưởng tâm lý
khi rủi ro nghề nghiệp xảy ra(3). Khảo sát về văn
hóa an toàn người bệnh dựa trên bảng câu hỏi
của Cơ quan nghiên cứu Y tế và Chất lượng
(AHRQ) được thực hiện lần đầu tiên tại Bệnh
viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang nhằm đánh
giá thực trạng về mức độ hiểu biết, nhận thức
cũng như thái độ, hành vi về an toàn người bệnh
của nhân viên y tế tại Bệnh viện. Kết quả khảo
sát sẽ là căn cứ để cải tiến, xây dựng những
khuyến nghị mang tính thực tiễn và khả thi giúp
lãnh đạo Bệnh viện triển khai những hoạt động
thiết thực về xây dựng văn hóa an toàn người
bệnh. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
nhằm phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến

TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 486 - th¸ng 1 - sè 1&2 - 2020
151
văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế
tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang
năm 2019
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
Nhân viên y tế làm
việc ở các khoa lâm sàng và cận lâm sàng tại
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang; thời
gian công tác trên 12 tháng.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
Nhân viên y tế đi học,
nghỉ hậu sản, ốm đau trong thời gian tiến hành
nghiên cứu.
- Thời gian:
Từ tháng 2 năm 2019 đến tháng
10 năm 2019.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt
ngang mô tả.
2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho
một tỷ lệ:
Z2(1-α/2) * p(1 - p)
n =
d2
Trong đó:
Z2(1-α/2) = 1,96 (Hệ số tin cậy ở
mức 95%); p: tỉ lệ lựa chọn p = 50%; d = 0,05
là độ chính xác mong muốn. cỡ mẫu tối thiểu
n=196, dự phòng thêm 10%. Như vậy cỡ mẫu
cho nghiên cứu được làm tròn là 220.
Phương pháp chọn mẫu: trên cơ sở số lượng
647 nhân viên y tế tại các Khoa, trong đó số bác
sỹ là 162 người, điều dưỡng là 485 người,
nghiên cứu viên sử dụng phương pháp chọn
mẫu phân tầng trong tổng số 220 đối tượng
nghiên cứu thì chọn 55 Bác sĩ, 165 Điều dưỡng/
kỹ thuật viên ở tất cả các khoa lâm sàng và cận
lâm sàng.
2.4. Công cụ thu thập số liệu. Bộ công cụ
cũng bao gồm hai câu hỏi trong đó người trả lời
cung cấp một mức độ tổng thể về ATNB trong
khu vực làm việc/đơn vị của họ và chỉ ra số
lượng các sự cố họ đã báo cáo trong 12
tháng(1),(3),(5),(6). Tiêu chuẩn đánh giá: Xác định
điểm mạnh của các lĩnh vực của nền VHATNB:
trung bình tỷ lệ đáp ứng tích cực từ 75% trở lên
và Xác định điểm yếu cần cải thiện của các lĩnh
vực của nền VHATNB: trung bình tỷ lệ đáp ứng
tích cực thấp dưới 75%.
2.5. Phương pháp phân tích và xử lý số
liệu: phầm mềm của tổ chức AHQR
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
đưa ra những nhận định và đánh giá về
VHATNB
3.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng VHATNB:
- VHATNB tại các khoa/phòng và bệnh viện là
vấn đề mới.
- Đào tạo, tập huấn về ATNB trong bệnh viện
chưa hiệu quả.
- Quy trình bàn giao và chuyển bệnh giữa các
khoa chưa đảm bảo an toàn.
- Sức ép, khối lượng công việc đối với các bác
sĩ/điều dưỡng trong khoa.
- Hệ thống báo cáo chưa hoạt động chưa
hiệu quả.
- Quá tải trong khám chữa bệnh.
- Nhận thức của người bệnh về dịch vụ y tế
và sự quan tâm của họ vào chăm sóc y tế còn
hạn chế.
3.1.2. Các yếu tố thc đẩy ảnh hưởng
VHATNB:
- Lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo khoa khuyến
khích nhân viên thực hiện ATNB.
- Sự hợp tác, hỗ trợ và tôn trọng lẫn nhau
của các đồng nghiệp trong khoa.
- Thiếu một số hướng dẫn liên quan đến ATNB.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng VHATNB
3.2.1. Yếu tố nhân viên y tế
- VHATNB tại các khoa/phòng và bệnh
viện là vấn đề mới: Kết quả phỏng vấn sâu
lãnh đạo phòng điều dưỡng cho thấy khái niệm
về VHATNB còn mới mẻ đối với nhân viên tại
bệnh viện. Nhân viên còn nghĩ ATNB là của lãnh
đạo bệnh viện, phòng Quản lý Chất lượng, bản
thân NVYT chưa thấy được tầm quan trọng,
không quan tâm cũng như chưa hiểu được ATNB
là gì. “Nhìn chung vấn đề VHATNB tương đối
mới, sự tiếp cận còn ít, hiện nay nhân viên chưa
hiểu hết vấn đề này” (PVS- Lãnh đạo phòng
Điều dưỡng). NVYT trong bệnh viện hiện nay chỉ
chú trong đến việc chăm sóc người bệnh được
nhanh khỏi bệnh, thời gian điều trị ngắn, ít tốn
chi phí nằm viện điều trị chứ chưa coi trọng việc
đảm bảo an toàn cho bệnh nhân trong thời gian
nằm viện. “Bản thân nhân viên ngại và sợ khi có
sự cố sai sót xãy ra, thường không được báo cáo
ngoại trừ những sự cố lớn nghiên trọng ảnh
hưởng đến tính mạng bệnh nhân”. (TLN Điều
dưỡng khối Nội và Cận lâm sàng).
Lãnh đạo phải luôn kêu gọi tính tự giác của
nhân viên, làm sau để nhân viên tự giác báo cáo
sai sót thật không dễ dàng, đa số NVYT cảm
thấy bị thành kiến khi báo cáo sự cố, bị phân
biệt đối xử, vẫn còn quan niệm báo lỗi sẽ bị
phạt, bị kiểm điểm phê bình nên có tâm lý sợ,
không báo cáo lỗi. “Cần có chính sách khen
thưởng, khuyến khích nhân viên báo cáo sai sót
của bản thân hay đồng nghiệp chỉ có như thế thì
số lượng báo cáo sẽ tăng lên” (PVS- Lãnh đạo

vietnam medical journal n01&2 - january - 2020
152
phòng Điều dưỡng).
- Đào tạo, tập huấn về ATNB trong bệnh
viện chưa hiệu quả: Kết quả phỏng vấn sâu
lãnh đạo khoa lâm sàng cho thấy mỗi năm Bệnh
viện tổ chức đào tạo, tập huấn về ATNB trong
bệnh viện nhưng chỉ lồng ghép trong những buổi
giao ban Bệnh viện, buổi sinh hoạt Điều dưỡng
hàng tháng. Tuy nhiên do tình hình nhân lực
thiếu, thời gian học gặp nhiều khó khăn nhân
viên vừa tham gia tập huấn vừa phải đảm bảo
công tác công tác chuyên môn. “Có xây dựng có
tập huấn nhưng chỉ có 1 đến 2 buổi vừa học vừa
công tác chuyên môn” (TLN Điều Dưỡng
Trưởng). “Tập huấn chung cho nhiều đối tượng
Lâm sàng và Cận lâm sàng nên không phù hợp
với từng đối tượng cụ thể” (PVS- Lãnh đạo khoa
Cận lâm sàng).
- Quy trình bàn giao và chuyển bệnh
giữa các khoa chưa đảm bảo an toàn: Kết
quả thảo luận nhóm Điều dưỡng Trưởng khoa
cho thấy ATNB lúc nào cũng được lãnh đạo coi
trọng, trong quá trình vận chuyển bệnh nhân
giữa các khoa phòng trong Bệnh viện. Tuy nhiên
một số khoa thì Hộ lý còn đi chuyển bệnh, gởi
mẫu xét nghiệm, đi Cận lâm sàng còn đưa cho
NB tự đi không có điều dưỡng dẫn đi. Hiện tại
trong Bệnh viện chưa quy trình rõ ràng, cụ thể. “
Bàn giao giữa các ca trực hằng ngày chỉ bàn
giao bằng miệng không có bàn giao bằng văn
bản” (TLN Điều dưỡng Trưởng).
- Sức ép, khối lượng công việc đối với
các Bác sỹ/Điều dưỡng: Kết quả thu được từ
phỏng vấn sâu lãnh đạo khoa Lâm sàng cho thấy
khối lượng công việc đối với các Bác sỹ, Điều
dưỡng là quá lớn Bác sĩ chú trọng điều trị, còn
Điều dưỡng ngoài việc thực hiện các kỹ thuật
quy trình chăm sóc BN phải thực hiện các việc
khác như ghi chép hồ sơ bệnh án, đưa NB đi cận
lâm sàng, thủ tục hành chánh quá nhiều nên áp
lực công việc rất lớn. “Thời gian NVYT dành cho
việc thăm khám, chăm sóc thời gian tương tác,
tiếp xúc người bệnh rất ít nên không có thời gian
tìm hiểu vấn đề ATNB” (PVS- Lãnh đạo khoa
Lâm sàng).
- Sự hợp tác, hỗ trợ và tôn trọng lẫn
nhau của các đồng nghiệp trong khoa rất
tốt: phỏng vấn sâu lãnh đạo khoa lâm sàng cho
thấy tình hình của Bệnh viện thiếu nhân lực
nhưng các khoa phòng luôn có sự giúp đỡ lẫn
nhau trong cấp cứu, điều trị, chăm sóc bệnh
nhân. Các đồng nghiệp trong khoa luôn giúp đỡ
để hoàn thành nhiệm vụ. “Áp lực công việc lớn,
căng thẳng nhưng trong khoa luôn giúp đỡ, hỗ
trợ lẫn nhau hoàn thành công tác chuyên môn”.
(PVS- Lãnh đạo khoa Lâm sàng).
3.2.2. Yếu tố hệ thống
- Hệ thống báo cáo hoạt động chưa hiệu
quả: Kết quả thu được từ phỏng vấn sâu lãnh
đạo Bệnh viện cho thấy VHATNB tại Bệnh viện
chưa được phát triển mạnh có triển khai nhưng
nhiều sự cố y khoa vẫn chưa được báo cáo. Bệnh
viện chỉ báo cáo những sự cố lớn nghiêm trọng
ảnh huởng đế tính mạng người bệnh những sự cố
nhỏ thường không được báo cáo. “Nhân viên ngại
báo cáo hoặc có ý kiến khi có sự cố không đúng
xãy ra họ sợ mít lòng, không muốn tạo mâu
thuẩn” (PVS- Lãnh đạo Bệnh viện).
“Tất cả nhân viên tại các khoa phòng trong
Bệnh viện đều được phổ biến hệ thống báo cáo
sự cố nhưng ngại báo cáo” (PVS- Lãnh đạo Bệnh
viện). Hệ thống báo cáo thì tốt nhưng làm thế
nào để nhân viên thấy được tầm quan trọng của
việc báo cáo, trước đây hệ thống báo cáo sự cố
chỉ bằng văn bản nhưng hiện nay Bệnh viện đã có
phần mềm báo cáo sự cố nhưng vẫn chưa được
báo cáo nhiều, những sự cố nhỏ thường không
được báo cáo “Bệnh viện đã có phần mềm báo
cáo sự cố dẫu vậy báo cáo vẫn chưa nhiều” (PVS-
Trưởng phòng Điều dưỡng). Hệ thống báo cáo
của Bệnh viện chỉ báo cáo “Có” hoặc “Không”
(PVS- Lãnh đạo khoa Cận lâm sàng).
Báo cáo về sai sót còn e ngại. Chủ yếu lãnh
đạo bệnh viện quan tâm đến ATNB khi có sự cố
nghiêm trọng xảy ra. Tuy nhiên không có phản
hồi sai sót từ phòng Quản lý Chất lượng, chỉ
những sự cố lớn mới phản hồi báo cáo trên giao
ban Lãnh đạo khoa. Khi có sự cố xảy ra thì quy
trình rườm rà, thủ tục hành chính quá nhiều và
dài dòng nên nhân viên ngại báo cáo.
- Lãnh đạo Bệnh viện, lãnh đạo khoa
luôn khuyến khích nhân viên thực hiện
ATNB: Kết quả thu được từ phỏng vấn sâu và
thảo luận nhóm cho thấy vấn đề VHATNB luôn
được lãnh đạo khoa quan tâm và giám sát nhân
viên thực hiện quy định, tuân thủ đúng quy trình
kỹ thuật, khuyến khích nhân viên tích cực báo
cáo sự cố cho lãnh đạo khoa “Mỗi năm sắp xếp
lãnh đạo khoa là thành viên mạng lưới tham gia
tập huấn ATNB tại thành phố Hồ Chí Minh”.
(PVS- Lãnh đạo Bệnh viện). Lãnh đạo khoa luôn
nhắc nhở nhân viên coi trọng vấn đề ATNB “Tính
mạng sức khỏe người bệnh quan trọng nhất”
(PVS- Lãnh đạo khoa Cậm lâm sàng). “An toàn
người bệnh luôn được lãnh đạo khoa coi trọng
và ưu tiên hàng đầu” (TLN Điều dưỡng Trưởng).
- Quá tải trong khám chữa bệnh: Kết quả
thu được từ phỏng vấn sâu cho thấy tại các
phòng khám và khoa phòng bệnh nhân đông
quá tải trong tình chung thiếu nhân lực (đặc biệt

TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 486 - th¸ng 1 - sè 1&2 - 2020
153
là nhân lực BS). “Lượng bệnh nhân đến khám và
điều trị tại phòng khám Bệnh viện là 2200
lượt/ngày, Điều trị nội trú là 1200 bệnh
nhân/ngày” (PVS- Lãnh đạo Bệnh viện).
- Thiếu một số hướng dẫn liên quan đến
ATNB: Kết quả nhận thu được từ phỏng vấn sâu
lãnh đạo phòng Điều dưỡng về ATNB và sự tuân
thủ ATNB chưa cao, thường thiếu các quy trình
hướng cụ thể cho các khoa phòng về ATNB.
“Phòng sẽ tập huấn lại cho Điều dưỡng các khoa
phòng các quy định như: Sốc phản vệ, Tiêm an
toàn, Phân loại rác...” (PVS- Trưởng phòng Điều
dưỡng).
3.3. Yếu tố người bệnh
- Nhận thức của người bệnh về dịch vụ y
tế và sự quan tâm của họ vào chăm sóc y
tế còn hạn chế: Kết quả phỏng vấn sâu Lãnh
đạo Bệnh viện cho thấy người bệnh ít quan tâm
đến vấn đề ATNB “Người bệnh rất quan tâm đến
bản thân khi tiếp nhận các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, chưa chú ý đến vấn đề ATNB mà chỉ coi
trọng vấn đề bệnh tật” (PVS- Lãnh đạo Bệnh
viện). “Lượng bệnh nhân đến khám và điều trị
tại phòng khám Bệnh viện là 2200 lượt/ngày,
Điều trị nội trú là 1200 bệnh nhân/ngày” (PVS-
Lãnh đạo Bệnh viện).
Người bệnh không thực hiện theo hướng dẫn,
cảnh báo nguy cơ mất an toàn của NVYT về ATNB
“NB chưa hiểu, không nghe theo hướng dẫn của
Điều dưỡng” (TLN- Điều dưỡng khối Ngoại).
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy một số
yếu tố ảnh hưởng VHATNB như: yếu tố hệ
thống, yếu tố nhân viên y tế và yếu tố người
bệnh. Yếu tố được xem là quan trọng nhất là
yếu tố nhân viên y tế, trong đó các yếu tố thúc
đẩy như: VHATNB tại các khoa/phòng và Bệnh
viện là vấn đề mới; Chưa đảm bảo an toàn Quy
trình bàn giao và chuyển bệnh giữa các khoa;
Hoạt động đào tạo, tập huấn về ATNB trong
bệnh viện chưa hiệu quả. “Các sai sót chuyên
môn ít nhiều cũng liên quan đến Bác sỹ, Điều
dưỡng trực tiếp chăm sóc NB, cần xây dựng đầy
đủ các quy trình kỹ thuật, phác đồ điều trị chuẩn
và phải có hướng dẫn thực hiện cho các khoa
phòng làm theo”.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống: Hệ
thống báo cáo hoạt động chưa hiệu quả ảnh
hưởng đế VHATNB tương tự như nghiên cứu
định tính về các yếu tố ảnh hưởng tại các bệnh
viện khu vực Jimma phí Tây Nam Ethiopia(7);
Lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo khoa khuyến khích
nhân viên thực hiện ATNB; Quá tải trong khám
chữa bệnh; Thiếu một số hướng dẫn liên quan
đến ATNB; Sức ép, khối lượng công việc đối với
các bác sỹ/điều dưỡng trong khoa.
Hệ thống báo cáo sự cố hoạt động chưa hiệu
quả, không có kiểm tra giám sát thường xuyên,
nâng cao ý thức của nhân viên y tế để họ hiểu
được tầm quan trọng của việc tự giác báo cáo sự
cố, tăng cường tập huấn ATNB. Kết quả này
tương tự như nghiên cứu định tính được tiến
hành tại Trung tâ Y tế huyện Lai Vung tỉnh Đồng
Tháp(6). Cần xây dựng quy trình bàn giao chuyển
bệnh giữa các khoa cụ thể, chuyển bệnh từ khoa
này sang khoa khác phải được Điều dưỡng dẫn đi.
Ngoài ra một số nội dung ảnh hưởng đến yếu
tố hệ thống như: Quy trình rờm rà, thủ tục hành
chính quá nhiều và dài dòng. các khoa phòng
đều thiếu nguồn nhân lực BS khối lượng công
việc quá lớn, nhân viên chưa được khuyến khích
báo cáo sự cố. Thông tin về sai sót còn e ngại,
không được báo cáo sự cố.
Một số nội dung ảnh hưởng đến yếu tố NB:
Nhận thức của người bệnh và người nuôi bệnh
cũng rất quan trọng, sự quan tâm của họ vào
chăm sóc y tế còn hạn chế, người bệnh không
thực hiện theo hướng dẫn, cảnh báo nguy cơ
mất an toàn của NVYT. Tại các khoa phòng cần
có những tờ rơi cảnh báo cho người bệnh về
những vấn đề không an toàn như: cảnh báo
những khu vực vị trí trơn trợt tránh té ngã; an
toàn về điện không nấu ăn trong Bệnh viện,
không hút thuốc dễ gây cháy nổ… Người bệnh
hiểu được những vấn đề vừa nêu sẽ giảm nguy
cơ mất an toàn trong Bệnh viện.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố
ảnh hưởng đến văn hóa an toàn người bệnh tại
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang như
sau: yếu tố hệ thống, yếu tố nhân viên y tế, yếu
tố liên quan đến người bệnh. Trong đó yếu tố
ảnh hưởng nhân viên y tế được cho là quan
trọng nhất. Một số yếu tố ảnh hưởng nhân viên
y tế: VHATNB tại các khoa/phòng và Bệnh viện
là vấn đề mới; Quy trình bàn giao và chuyển
bệnh giữa các khoa chưa đảm bảo an toàn; Đào
tạo, tập huấn về ATNB trong bệnh viện chưa
hiệu quả; Sức ép, khối lượng công việc lớn đối
với bác sĩ và điều dưỡng.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống: Hệ
thống báo cáo chưa hoạt động chưa hiệu quả;
Quá tải trong khám chữa bệnh thiếu nguồn nhân
lực bác sĩ; Thiếu một số hướng dẫn liên quan
đến ATNB.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến người bệnh:
Nhận thức của người bệnh và người nuôi bệnh, sự
quan tâm của họ vào chăm sóc y tế còn hạn chế,

vietnam medical journal n01&2 - january - 2020
154
Một số yếu tố thc đẩy ảnh hưởng: Sự
hợp tác, hỗ trợ và tôn trọng nhau trong khoa;
Lãnh đạo Bệnh viện, lãnh đạo khoa khuyến khích
nhân viên thực hiện an toàn người bệnh; Người
bệnh không thực hiện theo hướng dẫn, cảnh báo
nguy cơ mất an toàn của NVYT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Nguyễn Như Anh (2015), Nghiên cứu văn
hóa an toàn người bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ, Luận
văn Thạc sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Thị Hương Giang (2017), "Khảo sát
văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế
Bệnh viện Bạch Mai" , Diễn đàn Việt Nam về Quản
lý chất lượng và An toàn người bệnh năm 2017,
Hà Nội.
3. Lương Ngọc Khuê và các cộng sự (2014), Tài
liệu đào tạo liên tục an toàn người bệnh, Nhà xuất
bản Y học, Hà Nội.
4. Tăng Chí Thượng (2016), Khảo sát thực trạng
văn hóa an toàn người bệnh tại các bệnh viện
trong Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Khoa học và
Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài Khoa
học cấp Thành phố.
5. Tổ chức Y tế Thế giới (2011), Hướng dẫn
chương trình giảng dạy về An toàn bệnh nhân: Ấn
bản đa ngành, ISBN 978 92 9061 678 8 (NLM
classification: WX 167).
6. Ngô Thị Ngọc Trinh và cộng sự (2018) "Thực
trạng và một số yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức,
thái độ, thực hành về văn hóa an toàn người bệnh
của nhân viên Y tế tại Trung tâm Y tế huyện Lai
Vung - tỉnh Đồng Tháp", Tạp chí Khoa học Nghiên
cứu Sức khỏe và Phát triển, Đại học Y tế Công
cộng Hà Nội, tập 2 (03), tr. 47- 55.
7.Sintayehu Daba Wami, Amsalu Feleke
Demssie, Molla Mesele Wassie,
Ansha Nega Ahmed (2016), Patient safety culture
and associated factors: A quantitative and
qualitative study of healthcare workers’ view in
Jimma zone Hospitals, Southwest Ethiopia, BMC
Health Services Research, December
2016, 16:495| Cite as.
8. WHO (2009) WHO Patient Safety Research,
accessed by 28/11/2017, available at,
http://apps.who.int/iris/bitstrem/10665/70145/1/W
HO_IER_PSP_2009.10_eng.pdf.
THỰC TRẠNG THỪA CÂN, BÉO PHÌ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỘI CẤN,
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN NĂM 2019
Trần Thị Huyền Trang*, Trương Thị Thuỳ Dương*
TÓM TẮT39
Mục tiêu: Mô tả thực trạng thừa cân, béo phì và
xác định một số yếu tố liên quan ở học sinh trường
tiểu học Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên năm 2019.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên
cứu được tiến hành trên 1973 học sinh tại trường tiểu
học Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên với phương pháp
mô tả thiết kế cắt ngang. Phương pháp đánh giá tình
trạng dinh dưỡng dựa theo chuẩn tăng trưởng của
WHO năm 2007. Các yếu tố liên quan được thu thập
bằng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn. Kết quả nghiên
cứu: Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học là
33,6%, trong đó thừa cân chiếm tỷ lệ 20,3% và béo
phì là 13,3%. Nam giới có tỷ lệ thừa cân, béo phì khá
cao (21,5%) và cao hơn rõ rệt so với nữ giới (12,1%).
Một số yếu tố khác liên quan đến thừa cân, béo phì
như tiền sử gia đình có người bị thừa cân, béo phì;
thói quen ăn tối sau 20 giờ, tiêu thụ thức ăn nhanh,
đồ ngọt, bánh kẹo, kem của trẻ được tìm thấy trong
nghiên cứu này (p <0,05). Kết luận: Tỷ lệ thừa cân,
béo phì của trẻ ở mức cao, đáng báo động, cần có các
*Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên
Chịu trách nhiệm chính: Trần Thị Huyền Trang
Email: huyentrangdp2@gmail.com
Ngày nhận bài: 16.10.2019
Ngày phản biện khoa học: 16.12.2019
Ngày duyệt bài: 25.12.2019
giải pháp can thiệp bằng truyền thông và dinh dưỡng
hợp lý nhằm cải thiện tình trạng thừa cân, béo phì cho
trẻ em lứa tuổi học đường.
Từ khoá:
Tình trạng dinh dưỡng, thừa cân, béo
phì, học sinh tiểu học, thành phố Thái Nguyên.
SUMMARY
THE STATUS OF OVERWEIGHT/OBESITY
AND SOME ASSOCIATED FACTORS AMONG
CHILDREN AT DOI CAN PRIMARY SCHOOL
IN THAI NGUYEN CITY IN 2019
Objectives: Describe the current situation of
overweight, obesity and some related factors among
children at Doi Can primary school in Thai Nguyen city
in 2019. Research subjects and methods: The
study was conducted on 1973 pupils at Doi Can
primary school in Thai Nguyen city with method of the
cross-sectional survey. The nutritional status of study
subjects was assessed based on the World Health
Organization (WHO) classification in 2007. Use pre-
designed questionnaires to collect related factors.
Research results: The rate of overweight pupils was
33.6%, in which overweight accouted for 20.3% and
obesity rate was 13.3%. The rate of underweight
females (21.5%) was higher than that of underweight
males (12.1%). Some other factors related to
overweight and obesity such as family history, having
dinner after 8pm, consumption fast food, sweet food,
cake and ice cream (p < 0.05). Conclusion: The rate