Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) - 2015
74
Cách mạng tháng Tám
trong ký ức nhà sử học Trần Huy Liệu
Trần Đức Cường *
m tt: Có những người vốn là chiến sĩ cách mạng, từng tham gia các sự kiện lịch
sử quan trọng, sau này trở thành nhà sử học viết lại chính sự kiện đã trải qua góp phần
tạo nên sự chân thật sống động cho sử học. Giáo sư, Viện Trần Huy Liệu một
trong số những người hiếm hoi ấy. Ông nhà yêu nước, chiến cách mạng kiên
trung trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, sau trở thành nhà sử học nổi tiếng, uy tín
trong và ngoài nước.
T khóa: Cách mng tháng Tám; Nhà s hc; Trn Huy Liu.
Trần Huy Liệu sinh ngày 5 tháng 11 năm
1901 trong một gia đình nhà nho yêu nước
tại làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định. Sinh ra lớn lên trong cảnh mất
ớc, ông đã sớm tham gia các hoạt động
u nước chống thực dân Phápm lược. Từ
m 18 tuổi, Trần Huy Liệu đã làm thơ, viết
o thể hiện lòng yêu nước. Ông tích cực
tham gia các hoạt động chính trị trong phong
trào yêu ớc dân chủ vào các năm giữa
cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX. Ông viết
nhiều bài báo đả kích chế độ thuộc địa trên
tờ Nông cổ mín đàm xuất bản ở Nam Kỳ.
Năm 1925, Trần Huy Liệu làm chủ bút
tờ Đông Pháp thời báo. Qua tờ báo, ông
góp phần phát động phong trào đấu tranh
đòi thực dân Pháp trả tự do cho nhà yêu
nước Phan Bội Châu lúc ấy đang bị giam
giữ tại Nội, tổ chức đám tang Phan Chu
Trinh và đấu tranh đòi thả Nguyễn An Ninh
bị giam tại Khám lớn Sài Gòn tham gia
thành lập Đảng Thanh niên Việt Nam.
Năm 1928, Trần Huy Liệu thành lập Nhà
xuất bản Cường học thư xã, cho ấn hành
nhiều cuốn sách cổ tinh thần u nước
chống áp bức và góp phần nâng cao dân trí,
Trần Huy Liệu tham gia Việt Nam Quốc
dân Đảng, một tổ chức tiểu sản u
nước, chống Pháp lúc ấy trở thành yếu
nhân của Đảng.
Với những hoạt động yêu nước như đã
nêu, Trần Huy Liệu bị thực dân Pháp bắt
giam vào cuối năm 1929. Ông bị kết án 5
năm tù và đày ra Côn Đảo.
Nhà tù đế quốc không bẻ y ý chí chiến
đấu của Trần Huy Liệu. Tại Côn Đảo - một
địa ngục trần gian của thực dân Pháp dùng
để giam cầm, đày ải các chiến cách mạng
những người yêu nước - Trần Huy Liệu
vẫn tích cực hoạt động. Ông làm thư ký tòa
soạn cho Hòn Cau tuần báo, rồi Tạp chí
Tiếng sóng bể, Tạp chí Bàn góp nhằm cổ vũ
lòng yêu nước cho các bạn đả phá ách
thống trị thực dân.(*)
Chính trong nhà đế quốc, Trần Huy
Liệu có dịp đọc một s tác phẩm cách
mạng được lưu hành mật, như: bản
luận, Duy vật lịch sử, Triết học duy vật,
Kinh tế chính tr học một s tập của
Lênin toàn tập.
Qua những kiến thức lý luận cách
mạng học được từ sách vở từ các cuộc
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học
hội Việt Nam. ĐT: 0913558903.
Email: bichtoanvsh@gmail.com.
LỊCH SỬ - KHẢO CỔ - DÂN TỘC HỌC
Cách mạng tháng Tám...
75
thảo luận chính trị và qua các tấm gương
yêu nước, bất khuất, kiên cường của nhiều
đảng viên cộng sản cùng bị giam giữ, ông
dần dần giác ng tưởng cộng sản chủ
nghĩa. vậy, năm 1934, khi ra tù, ông
tuyên bố ly khai Việt Nam Quốc dân Đảng
để đến năm 1936, trở thành đảng viên Đảng
Cộng sản Đông Dương.
Được phân công hoạt động trên lĩnh vực
báo chí, Trần Huy Liệu tích cực viết bài cho
các báo yêu nước, như: Đất nước, Tiếng
vang, Kiến văn, Hồn trẻ, Tiếng trẻ, Tân
hội, Thời thế, Thời báo. Ông còn cùng với
Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai viết cho
tờ báo Le Travail (Lao động) nhằm cổ
phong trào đấu tranh của quần chúng trong
thời kỳ Mặt trận Bình dân.
Khi chính quyn thực dân đóng cửa tờ Le
Travail, Trn Huy Liệu ng với Trường
Chinh, Đào Duy Kỳ, Khut Duy Tiến, Trn
Đình Long, Trần Đình Tri, n n, Nguyn
Tợng Khanh ra o Tin tức, tờ báo ng
khai của Đảng Cộng sn Đông ơng.
Sau khi báo Tin tức bị đóng cửa, Trần
Huy Liệu lại tham gia ra tờ Đời nay, công
kích chế độ tàn bạo của thực dân Pháp thể
hiện qua chính sách ruộng đất, thuế khóa…
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ, chính quyền Pháp ở Đông Dương ra sức
đàn áp các lực lượng cách mạng u
nước, thế tờ Đời nay bị đóng cửa, Trần
Huy Liệu cùng với các đồng chí của ông
như Trần Đình Long, Nguyễn Văn Phúc bị
thực dân Pháp bắt giam, bị kết án 3 năm
và đày đi Sơn La.
Trong nhà Sơn La và một số trại giam
Trần Huy Liệu bị thực dân Pháp đày
đọa sau đó như trại giam Vân, Nghĩa
Lộ, ông lại viết báo làm chủ bút các tờ
Suối Reo (1941), Dòng sông Kông (1942),
Con đường nghĩa (1945) với các bài viết
lên án chế độ tàn bạo của kẻ thù nâng
cao tinh thần yêu nước, lạc quan cách mạng
cho các đồng chí bị địch bắt giam.
Ngày 17 tháng 3 năm 1945, trong nh
thế cách mạng sôi nổi cả nước lúc ấy, Trần
Huy Liệu cùng với hơn một trăm chính
trị phá trại giam Nghĩa Lộ, vượt ngục, về
với cách mạng để tham gia hoạt động. Ông
thường xuyên viết báo Cứu quốc, quan
ngôn luận của Mặt trận Việt Minh kịp
thời tham gia vào các hoạt động của Đảng
các tổ chức yêu nước tiến tới Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
Tháng 8 năm 1945, Trần Huy Liệu dự
Đại hội Quốc dân tại Tân Trào, được cử giữ
chức Phó Chủ tịch y ban Dân tộc Giải
phóng rồi làm Bộ trưởng Tuyên truyền
trong Chính phủ Lâm thời.
Trong những ngày tháng Tám sôi động
khí thế cách mạng của mùa Thu năm 1945,
người chiến sĩ cách mạng Trần Huy Liệu đã
trải qua những giờ phút trọng đại của đất
nước trọng đại trong cuộc đời hoạt động
cách mạng sôi nổi của ông: được phân công
viết bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi
nghĩa trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945 ngay trên mảnh đất Tân Trào lịch
sử được cử làm Trưởng đoàn của Chính
phủ Lâm thời tuyên bố chấp nhận sự thoái
vị của vua Bảo Đại nhận ấn, kiếm của
nhà vua nộp cho Chính quyền Cách mạng,
trước sự chứng kiến của hơn 5 vạn nhân
dân thành phố Huế.
Sau y, khi đã trở thành một nhà sử
học, Trần Huy Liệu đã viết về sự kiện trọng
đại này như sau:
“Tin Nhật đầu hàng thúc dục Ủy ban
Khởi nghĩa phải làm việc gấp rút, lệnh khởi
nghĩa của Ủy ban Lâm thời Khu Giải phóng
đã được truyền đi, các công văn, chỉ thị đều
được đóng dấu ngoài, nghĩa phải truyền
theo các trạm đi luôn ngày đêm không nghỉ.
Đêm 13 tháng 8, trong một căn nhà lợp
lá, tôi được đồng chí Văn (Võ Ngun Giáp
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) - 2015
76
- TG) ủy quyền cho thảo bản Quân lệnh số
1 của Ủy ban Khởi nghĩa.
Mặc dù ngồi dưới ngọn đèn tù mù những
con tầm xuân, con thiêu thân bay quanh tới
tấp, muỗi dĩn thay nhau đốt làm tôi
nhiều lúc nẩy người lên hay đập chân bành
bạch, tôi vẫn say a nghĩ đến cảnh mất
nước, dân nhục từ hơn tám mươi năm, nghĩ
đến sự nghiệp cách mạng của mấy thế k
qua; những cuộc khởi nghĩa của Văn thân,
của Việt Nam Quốc dân Đảng cho đến ngày
nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương. Mình được sung sướng làm
cái việc “nửa đêm truyền hịch hẹn ngày
xuất quân”. Bản Quân lệnh số 1 lúc ấy tôi
thảo ra một mạch, đọc đi đọc lại vẫn không
sửa chữa một chữ nào”(1).
Rồi những ngày tiếp theo, như một s
thần kỳ của thời điểm “mỗi ngày bằng
20 năm”, 17 ngày sau: “Ngày 30 tháng Tám
năm 1945, theo giờ đã định, 5 vạn nhân dân
nội thành Huế đã tập trung trước cửa Ngọ
môn, cờ đỏ sao vàng rực rỡ bên bờ sông
Hương trên mặt sông, điểm vào những
hàng cây liễu xanh cắm trên những
chiếc thuyền bồng bềnh giữa dòng nước
xanh biếc. Xe của phái đoàn từ từ tiến vào
cửa chính Ngọ môn giữa tiếng hoan hô
vang dậy của quần chúng...
Bảo Đại chít khăn vàng, mặc hoàng o
đứng chực sẵn cửa. Phái đoàn bước lên
Ngọ môn, dân chúng hoan sôi nổi. Đến
lượt Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Đọc xong,
Bảo Đại giơ hai tay ng chiếc kiếm dài
nạm ngọc và sau đóchiếc ấn hình vuông.
Tôi thay mặt Chính phủ Lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận hiện
vật tượng trưng cho chế độ”(2).
Ông cũng y tỏ cảm xúc của mình về
những giờ phút trọng đại ấy:
“Sau cuộc lễ, một nhà báo đến phỏng
vấn tôi về cảm tưởng khi nhận ấn kiếm của
Bảo Đại, tôi nói: Trong cuộc đời tham gia
cách mạng chống thực dân, phong kiến, tôi
đã hai lần được sống những giờ phút sung
sướng nhất lúc thảo Quân lệnh số 1 của
Ủy ban Khởi nghĩa trong cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám hôm nay được nhận ấn
kiếm từ vị vua cuối cùng của chế độ quân
chủ Việt Nam. Đó kết quả của một quá
trình đấu tranh gian khổ anh dũng của
dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng của
giai cấp công nhân. Trong những ngày vinh
quang của dân tộc, riêng về phần tôi, tôi đã
được cái vinh dự sống những giờ phút
lịch sử mà cách mạng đã ban cho tôi.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng
trường Ba Đình, Hồ Chủ tịch thay mặt
Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập. Tôi cũng báo cáo về phái đoàn vào
Huế nhận việc thoái vị của Bảo Đại đệ
ấn kiếm lên Hồ Chủ tịch”(3).
Ông còn viết: “Bây giờ nhớ lại, tôi nghĩ
nếu đời người ta, nh yêu đầu tiên vẫn là
tình yêu ny thơ nhất, thắm thiết nhất, say
nhất, thì nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa của chúng ta, theo chủ quan của tôi, cái
phong vị của những ngày đầu sau cuộc
Tổng khởi nghĩa thắng lợi vẫn đậm đà nhất,
nhớ lâu nhất”(4).
Cái tình yêu ấy, cái “phong vịcủa thủa
ban đầu ấy đối với sự nghiệp cách mạng
nền độc lập, tự do thiêng liêng của đất
nước, Trần Huy Liệu đã mang theo cho đến
hết cuộc đời hoạt động sôi nổi, nhiệt thành
của ông trong hoàn cảnh nào, khi ông là
Bộ trưởng Tuyên truyền trong Chính phủ
Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa hay khi Trưởng ban Nghiên cứu Văn
Sử Địa, Viện trưởng Viện Sử học.
(1) Trần Huy Liệu (1991), Hồi ký, Nxb Khoa học
hội, tr.354.
(2) Sđd, tr.369 - 370.
(3) Sđd, tr.371.
(4) Trần Chiến (2009), Trần Huy Liệu - Cõi người,
Nxb Kim Đồng, Hà Nội, tr.18.
Cách mạng tháng Tám...
77