
Có l thiên nhiên đp và bao la đi ngàn luôn làm khu y đng n i lòng và tâm th c con ng i, nó khu y sâu th m vào lòng ng i khi n n i s u càng s uẽ ẹ ạ ấ ộ ỗ ứ ườ ấ ẳ ườ ế ỗ ầ ầ
h n, vì vây vi c dùng v đp bao la c a thiên nhiên đ bày t tâm tr ng đã đc r t nhi u thi s s d ng trong th trung đi.ơ ệ ẻ ẹ ủ ể ỏ ạ ượ ấ ề ỹ ử ụ ơ ạ
Nh ng Huy C n đã ti p thu phong v đó vào tác ph m “Tràng Giang” c a mình, ph thêm nh ng nét m i l c a th hi n đi; qua đó, Huy C n đã t o nên choư ậ ế ị ẩ ủ ổ ữ ớ ạ ủ ơ ệ ạ ậ ạ
ng i đc nh ng n t ng v không gian c a tác ph m, đc bi t là trong hai kh th đu.ườ ọ ữ ấ ượ ề ủ ẩ ặ ệ ổ ơ ầ
Ngay t tên bài th “Tràng Giang” và l i đ t “Bâng khuâng tr i r ng sông dài”, m t không gian sông n c bao la đã hi n h u. “Tràng” t c là dài, “Giang” làừ ơ ờ ề ừ ờ ộ ộ ướ ệ ữ ứ
sông. Sông dài, tr i r ng m ra m t không gian bao la, t i đp, nh ng bu n, nh ng d y lên trong tâm h n tác gi m t n i “bâng khuâng” l k .ờ ộ ở ộ ươ ẹ ư ồ ư ấ ồ ả ộ ỗ ạ ỳ
Không gian bao la, r ng l n hi n h u tr c m t, nh ng cũng b i v y mà con ng i càng c m th y l c lõng, cô đn. Gi a b t ngàn c a sông n c, conộ ớ ệ ữ ướ ắ ư ở ậ ườ ả ấ ạ ơ ữ ạ ủ ướ
ng i nh bé, l ng l , cô đn. Đng tr c không gian y, n i lòng Huy C n cũng dâng trào. T ng đt sóng xô trên “Tràng Giang” là “đi p đi p” n i bu nườ ỏ ặ ẽ ơ ứ ướ ấ ỗ ậ ừ ợ ệ ệ ỗ ồ
trong tâm h n thi s . Sóng c a thiên nhiên v nh thì c n sóng lòng dào d t ùa v . Và t đây, m t không gian th hai xu t hi n đó là không gian c a tìnhồ ỹ ủ ỗ ẹ ơ ạ ề ừ ộ ứ ấ ệ ủ
c m, c m xúc trong n i lòng tác gi . Nhìn v phía sông n c bao la, tác gi th y m t con thuy n c trôi theo mái n c song song.ả ả ỗ ả ề ướ ả ấ ộ ề ứ ướ
Có l con thuy n y trôi r t nh , không có chút m t m i, nh ng vô th c và cô đn. Con thuy n c trôi mãi theo dòng n c song song, hai ch “song song”ẽ ề ấ ấ ẹ ệ ỏ ư ứ ơ ề ứ ướ ữ
nh hai đng th ng dài tít t p, c ch y mãi mà không bao gi g p, cũng gi ng nh thân ph n c a con thuy n kia, vô d nh và b v , l c lõng. Nhìn conư ườ ằ ắ ứ ạ ờ ặ ố ư ậ ủ ề ị ơ ơ ạ
thuy n mà n i s u c a tác gi nh dâng cao, không gian r ng l n c a thiên nhiên đã thôi thúc không gian lòng, khi n tác gi c m th y n i d u c a mình cũngề ỗ ầ ủ ả ư ộ ớ ủ ế ả ả ấ ỗ ầ ủ
vô đnh nh con thuy n y, “s u trăm ng ”.ị ư ề ấ ầ ả
M t hình nh bu n hi n lên tr c m t tác gi : "C i m t cành khô l c m y dòng”. Không bi t cành c i đáng th ng y là m t v t h u hình có th c, hay nóộ ả ồ ệ ướ ắ ả ủ ộ ạ ấ ế ủ ươ ấ ộ ậ ữ ự
là m t hình nh ch t xu t hi n trong n i cô đn c a Huy C n, b i nó cũng nh bé và l c lõng nh con ng i.ộ ả ợ ấ ệ ỗ ơ ủ ậ ở ỏ ạ ư ườ
Gi a dòng đi bao la, gi a s xô đy c a t ng dòng sóng, nó c trôi l c lõng, lênh đênh. N i s u trong tác gi càng s u h n. Vi c s d ng nh ng hình nhữ ờ ữ ự ẩ ủ ừ ứ ạ ỗ ầ ả ầ ơ ệ ử ụ ữ ả
thiên nhiên bao la là m t nét quen thu c trong đng thi, nh ng Huy C n đã nh nó mà th m nói lên n i lòng c a mình, nh không gian thiên nhiên làm n iộ ộ ườ ư ậ ờ ầ ỗ ủ ờ ổ
lên không gian tình c m.ả
kh th th hai, v n b t g p nh ng hình nh tr i dài theo không gian, nh ng cái n i cô đn trong tâm tr ng tác gi càng tr i dài h n n a:Ở ổ ơ ứ ẫ ắ ặ ữ ả ả ư ỗ ơ ạ ả ả ơ ữ
“L th c n nh gió đìu hiu,ơ ơ ồ ỏ
Không gian hi n ra không ch đc tác gi quan sát b ng th giác, mà tác gi còn l ng tai nghe và càng s u h n – m t n i s u v nhân th , v ki p ng i, vệ ỉ ượ ả ằ ị ả ắ ầ ơ ộ ỗ ầ ề ế ề ế ườ ề
cu c s ng th i đó. Đôi m t tác gi bu n theo và nhìn xung quanh c nh v t, đôi tai nh y c m l ng nghe nh ng âm thanh th a th t, vãn d n xa xa. C n nhộ ố ờ ắ ả ồ ả ậ ạ ả ẳ ữ ư ớ ầ ở ồ ỏ
l th , nh bé, c n gió thì th i nh nh ng đìu hiu, nh cũng bu n gi ng tác gi . Huy C n tinh t c m nh n c n gió y, sao mà bu n, sao mà l ng l , cô liêu.ơ ơ ỏ ơ ổ ẹ ư ư ồ ố ả ậ ế ả ậ ơ ấ ồ ặ ẽ
Ti ng làng xa n i đâu th a th t vãn bu i ch chi u, c nh d n, nh bé trong cái l n m nh c a thiên nhiên. Huy C n đa m t nhìn lên b u tr i kia, tâmế ở ơ ư ớ ổ ợ ề ứ ỏ ầ ỏ ớ ạ ủ ậ ư ắ ầ ờ
tr ng bu n c a Huy C n cũng ph vào b u tr i bao la y m t n i bu n sâu th m. B i v y khi n ng xu ng, trong con m t Huy C n, tr i không cao mà l iạ ồ ủ ậ ổ ầ ờ ấ ộ ỗ ồ ẳ ở ậ ắ ố ắ ậ ờ ạ
“sâu chót vót”, cũng nh không gian sâu th m c a n i bu n.ư ẳ ủ ỗ ồ
S suy t c a Huy C n nh đi vào b u tr i y, khoét sâu đn t n vũ tr xa th m ngoài kia, bu n đn l lùng. Nhìn l i khung c nh thiên nhiên bao la y, v nự ư ủ ậ ư ầ ờ ấ ế ậ ụ ẳ ồ ế ạ ạ ả ấ ẫ
tr i r ng, sông dài, v n b n cô liêu và trong lòng tác gi v n n ào c a m t n i s u, m t n i bâng khuâng cô đn và v ng v .ờ ộ ẫ ế ả ẫ ồ ủ ộ ỗ ầ ộ ỗ ơ ắ ẻ

C nh quan, không gian bao la c a thiên nhiên m r ng ra tr c m t Huy C n nh ng m i th đu m o, mang m t cái nét r t tr tr i, bâng khuâng. Tuy mả ủ ở ộ ướ ắ ậ ư ọ ứ ề ờ ả ộ ấ ơ ọ ờ
o nh ng l i mang m t tri t lý sâu xa. M i v t h u hình hi n ra trong m t Huy C n đu bu n, đu cô đn, cũng nh th i th đt n c b y gi , cũng bănả ư ạ ộ ế ọ ậ ữ ệ ắ ậ ề ồ ề ơ ư ờ ế ấ ướ ấ ờ
khoăn và l c lõng, trôi n i vô đình nh con thuy n, nguy hi m và nh bé nh cây c i khô l c gi a dòng sông.ạ ổ ư ề ể ỏ ư ủ ạ ữ
Con ng i nh trôi l c gi a dòng đi, dòng cu c s ng. B i v y, tuy m i th đu m o nh đc ph m t làn khói bu n nh ng đu tô đm tính tri t lý vườ ư ạ ữ ờ ộ ố ở ậ ọ ứ ề ờ ả ư ượ ủ ộ ồ ư ề ậ ế ề
cu c s ng và con ng i, cũng nh m t n i bu n c a ng i con th ng đt n c – Huy C n.ộ ố ườ ư ộ ỗ ồ ủ ườ ươ ấ ướ ậ
Tác ph m “ Tràng Giang” cho đn t n bây gi v n là m t đnh cao ngh thu t mà khó ai có th v n t i, b i s khéo léo và tinh t c a tác gi trong vi c kéoẩ ế ậ ờ ẫ ộ ỉ ệ ậ ể ươ ớ ở ự ế ủ ả ệ
h p gi a không gian thiên nhiên v i không gian tâm tình, quan tr ng h n là vì “Tràng Giang” mang m t tri t lý sâu xa v cu c đi, v đt n c. Tuy khôngợ ữ ớ ọ ơ ộ ế ề ộ ờ ề ấ ướ
th hi n tr c ti p nh ng Huy C n đã in bóng vào “Tràng Giang” m t tình yêu t qu c, cũng s l ng l bu n tr c cu c s ng th i b y gi .ể ệ ự ế ư ậ ộ ổ ố ự ặ ẽ ồ ướ ộ ố ờ ấ ờ
Vì v y, “Tràng Giang” luôn đng v ng và đng cao trong n n văn h c n c nhà, cũng nh trong trái tim c a ng i đc mãi v sau. M t n i bu n đã qua điậ ứ ữ ứ ề ọ ướ ư ủ ườ ọ ề ộ ỗ ồ
t lâu, nh ng d v y, c m giác y, n i bu n y c đng mãi v i con ng i sau này m i khi đc “Tràng Giang”, khi n ng i ta ph i suy ng m v nhân tìnhừ ư ư ị ấ ả ấ ỗ ồ ấ ứ ọ ớ ườ ỗ ọ ế ườ ả ẫ ề
và cu c đi.”ộ ờ
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn
quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi
cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn
thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng",
"Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài
thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa
thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho
kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại,
đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai
âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng
giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng
sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường
thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện
nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần
hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước
cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng
khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên
man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang
đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan
xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một
"con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng
"tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách
"thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ
chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo
ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo,
cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc
đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ
còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ
đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm
trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé
nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi,
rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ
rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó
cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót
vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của

nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì
thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán
chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô
đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô
định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng
người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở
ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người,
không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút
gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò
ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào
như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ
Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây
cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều:
Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả
đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng
hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi
niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không
còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần
vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng
yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi,
qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các
tứthơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối
cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất
nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng
một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Huy C n là m t trong nh ng nhà th xu t s c nh t c a phong tràoậ ộ ữ ơ ấ ắ ấ ủ “Th M i”ơ ớ . Ông n i ti ng v i các tác ph m nh :ổ ế ớ ẩ ư L a Thiêng, Vũ tr ca, Kinh c u tử ụ ầ ự…
B n đc bi t đn ông nhi u nh t qua bài thạ ọ ế ế ề ấ ơ Tràng giang rút t t pừ ậ L a thiêngử là m t trong nh ng bài th n i ti ng nh t c a Huy C n.ộ ữ ơ ổ ế ấ ủ ậ
Huy C n tâm s r ng, bài th Tràng Giang là do con sông H ng g i t , lúc đu bài th có tên làậ ự ằ ơ ồ ợ ứ ầ ơ Chi u bên sôngề nh ng sau đó nhà th đi tên làư ơ ổ Tràng Giang.
Nhan đ bài thề ơ Tràng giang g i lên không khí c kính b i hai t Hán Vi t g i hình nh m t dòng sông dài r ng mênh mông. Không ch v y, âm “ang” g iợ ổ ở ừ ệ ợ ả ộ ộ ỉ ậ ợ
âm h ng mênh mang nh ti ng sóng v vào lòng ta bi t bao n i ni m. Và n i ni m y còn l ng đng h n, da di t h n b i câu đ t mang c m xúc chưở ư ế ỗ ế ỗ ề ỗ ề ấ ắ ọ ơ ế ơ ở ề ừ ả ủ
đo cho toàn bàiạ “Bâng khuâng tr i r ng nh sông dài”.ờ ộ ớ
Bài th m đu b ng m t Tràng Giang mênh mang sông n c:ơ ở ầ ằ ộ ướ
“
Tràng giang hi n lên v i nhi u hình nh đp trong c thi: dòng sông, con thuy n, g n sóng,… Nh ng c nh đp mà l i th m đm m t n i bu n da di t bângệ ớ ề ả ẹ ổ ề ợ ư ả ẹ ạ ấ ượ ộ ỗ ồ ế
khuâng. Hai chữ “đi p đi p”ệ ệ g i hình nh nh ng con sóng t ng g n nh nh p nhô hòa mình vào Tràng giang r i bi n m t trong dòng ch y mênh mông.ợ ả ữ ừ ợ ẹ ấ ồ ế ấ ả
Sóng c a dòng sông, c a thiên nhiên trong phút y cũng hóa thành con sóng lòng c a thi nhân v i t ng n i bu n c th trùng đi p trong lòng. Nguy n Duủ ủ ấ ủ ớ ừ ỗ ồ ứ ế ệ ở ễ
t ng vi từ ế “Ng i bu n c nh có vui đâu bao gi ”.ườ ồ ả ờ Có l vì lòng ng i bu n mà tâm c nh cũng ẽ ườ ồ ả nhu m ố lên ngo i c nh. Nhìn đâu thi nhân cũng ch th y c nhạ ả ỉ ấ ả
v t r i r c chia ly, u s u c th mà hi n lên trong t ng câu ch . X a nay,ậ ờ ạ ầ ứ ế ệ ừ ữ ư thuy n – n cề ướ v n là hai s v t không th tách r i th mà nay chúng l i h ng hố ự ậ ể ờ ế ạ ữ ờ
nh không ăn nh p vào nhau “ư ậ Con thuy n cũng không bu n lái, đ m c xuôi theo dòng n c l ng l . Ngay c dòng n c trong b n thân con sông cũng khôngề ồ ể ặ ướ ặ ờ ả ướ ả
thi t đn nhau, c âm th m mà ch y “song song”, v không quen bi t nhau trong đi”. (H Minh Tú tr ng THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Bình Đnh).ế ế ứ ầ ả ờ ế ờ ồ ườ ị
R i b t ng thay, trên dòng ch y mênh mông y, thi nhân b t g p cành c i khô đn đcồ ấ ờ ả ấ ắ ặ ủ ơ ộ “C i m t cành khô l c m y dòng”ủ ộ ạ ấ . Nhà phê bình Nguy n Đăngễ
M nh nh n xét r ngạ ậ ằ “L n đu tiên trong l ch s thi ca, m t cành c i khô trôi vào th Huy C n nh n i cô đn c a m t ki p ng i trong xã h i cũ”.ầ ầ ị ử ộ ủ ơ ậ ư ỗ ơ ủ ộ ế ườ ộ “Cành
c i”ủ thôi đã g i lên s nh bé, đn đc l i cònợ ự ỏ ơ ộ ạ “c i khô”ủ n a thì l i càng bé nh t i nghi p h n. Ph i chăng hình nh cành c i khô trôi n i phù du trên sóngữ ạ ỏ ộ ệ ơ ả ả ủ ổ
n c Tràng giang chính là hình nh n d đ bi u t ng cho ki p ng i nh thi nhân đang n i trôi, b v , vô đnh gi a dòng ch y c a cu c đi, gi a cu ngướ ả ẩ ụ ể ể ượ ế ườ ư ổ ơ ơ ị ữ ả ủ ộ ờ ữ ồ
phong c a m t đt n c m t ch quy n ?ủ ộ ấ ướ ấ ủ ề
V n ti p n i cái u s u, bu n bã c a kh m t, kh th ti p theo nh đy đa con ng i lên đn đnh s u:ẫ ế ố ầ ồ ủ ổ ộ ổ ơ ế ư ẩ ư ườ ế ỉ ầ
“L th c n nh gió đìu hiu,ơ ơ ồ ỏ
Huy C n tâm s r ng ông h c đc ý t hai câu th c a Chinh ph ngâm: “ậ ự ằ ọ ượ ừ ơ ủ ụ Non K qu nh qu trăng treo/ỳ ạ ẽ B n phì gió th i đìu hiu m y gò”ế ổ ấ . Và th n th cầ ơ ổ
đi n y đã nhu m vào Tràng giang mang cái bu n th ng hiu h t. Trên dòng Tràng giang mênh mông, m c lênể ấ ố ồ ươ ắ ọ “l thơ ơ c n nh ”.ồ ỏ T láyừ “l th ”ơ ơ di n t sễ ả ự