VĂN MẪU LỚP 11
CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP TÂM HỒN VÀ NHÂN CÁCH CỦA HẢI
THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC QUA ĐOẠN TRÍCH VÀO PHỦ
CHÚA TRỊNH
BÀI MẪU SỐ 1:
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào
cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính.
Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo,
ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về
quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông
được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn
trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân
thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh
cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông:
đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang
của vua chúa thực khác hẳn người thường” (!). Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu
Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam
sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người
dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới
chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết
thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên
trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần
tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân,
trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm
thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu
cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi
hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã
cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành
cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến.
“Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm
ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để
vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn
những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi
đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê
vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người
ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả
những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông
khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm.
Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo
làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng
buộc, không làm sao về núi được (...). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu
nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”.
Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược
lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do
cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết
và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng
thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ
báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi
ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách
được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm
trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy
nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và
có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau
xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi
trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng
được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với
lòng thành kính nhất
BÀI MẪU SỐ 2:
Vào phủ chúa Trịnh, trích trong Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác (1724 -1791)
- văn bản tác phẩm được khắc in vào năm 1879, tức 88 năm sau khi tác giả qua đời, do
thầy thuốc Vũ Xuân Hiên và hòa thượng Thích Thanh Cao ở chùa Đồng Nhân, Quế Võ,
Bắc Ninh quyên tiền thực hiện, việc khắc in kéo dài trong hơn 6 năm - đã được các tác
giả của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn 11 bậc THPT.
Vào phủ chúa Trịnh, trích trong Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác (1724 -1791)
- văn bản tác phẩm được khắc in vào năm 1879, tức 88 năm sau khi tác giả qua đời, do
thầy thuốc Vũ Xuân Hiên và hòa thượng Thích Thanh Cao ở chùa Đồng Nhân, Quế Võ,
Bắc Ninh quyên tiền thực hiện, việc khắc in kéo dài trong hơn 6 năm - đã được các tác
giả của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện hành (cả ở bộ nâng cao và bộ cơ
bản) giới thiệu cho học sinh trung học phổ thông nước nhà. Những người làm chương
trình và sách giáo khoa quả có cặp mắt xanh. Với dụng ý giới thiệu cho thế hệ trẻ học
đường về một tác phẩm kí trung đại đặc sắc, của một trong những tác giả thuộc mô thức
nhà nho ở ẩn tiêu biểu. Thượng kinh kí sự là tác phẩm kí độc đáo được Lê Hữu Trác hoàn
thành vào tháng 8-1783. Ở đó, tác giả đã kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật của kí như:
du kí, nhật kí, hồi kí, kí phong cảnh, kí ghi người, ghi việc... Phải thừa nhận rằng, đến
Thượng kinh kí sự, thể kí văn học đích thực của Việt Nam mới thật sự ra đời. Đọc xong
tác phẩm, ta thấy hình tượng nhân vật tác giả hiện lên rõ ràng, sinh động. Đấy là một thi
nhân, một ẩn sĩ thanh cao, một danh y lỗi lạc đã tự đặt mình ra ngoài vòng cương tỏa và
mỗi khi nghe tới hai chữ "công danh" thì sợ đến "dựng cả tóc gáy" bởi đã mắc vào rồi thì
"trời cứu cũng không thoát được". Ngoài ra, ta còn thấy Lê Hữu Trác là người lúc nào
cũng đau đáu một nỗi thương cha mẹ, yêu quê hương, nhớ bạn bè thân thích đến không
cầm được nước mắt[1]. Các câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa và những
gợi ý trong sách giáo viên đã cố gắng để làm rõ những kết quả cần đạt:
2. Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung viết về người thật việc thật, nhưng
thông qua những sự kiện tai nghe mắt thấy ấy, dường như Hải Thượng Lãn Ông muốn
gửi gắm trong đó những suy tư trăn trở của ông về thế sự, về sự tồn vong của chính thể
nhà Lê -Trịnh mà giới sử học gọi là thời Lê Mạt. Trong mắt Lê Hữu Trác tuy ở ẩn tận sơn
thâm cùng cốc nhưng vốn con quan, chỗ nào trong cấm thành (cung vua Lê - chúng tôi
thêm) cũng đã từng biết. Chỉ có những việc ở trong phủ chúa là (...) chỉ mới nghe thôi.
Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường[3].
Ông làm thơ ghi lại, lời thơ bề ngoài có vẻ như ca ngợi nhưng ngầm phê phán hết sức sâu
sắc nhà chúa:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào![4]
Phủ chúa Trịnh là thế giới thần tiên nơi cõi trần, là nơi sang nhất nước Nam tức
sang hơn cả cung vua Lê: đâu đâu cũng cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua
thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những hành lang quanh co nối nhau liên tiếp.
Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi. Vệ sĩ canh giữ
cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ. (...) Điếm làm bên một cái hồ, có những cái cây lạ
lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng kiểu cách thật là xinh
đẹp[5]. Phủ chúa giàu sang tột cùng như vậy do đâu mà có? Phan Huy Chú (1782-1840)
trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết nạn sưu cao thuế nặng thời ấy:
Vào khoảng năm Giáp Thìn (1724) xét biên, trong dân gian, ai có nghề nghiệp gì
là chiếu bổ thuế sản. Vì sự trưng thu quá mức, vật lực kiệt không thể nộp nổi đến nỗi
người ta thành ra bần cùng mà phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà phải
chặt cây sơn, có người vì thuế vải lụa mà phải phá khung cửi. Cũng có kẻ vì nộp gỗ cây
mà bỏ rìu, búa, vì phải bắt tôm cá mà xé lưới chài, vì phải nộp mật mía mà không trồng
mía nữa, vì phải nộp bông chè mà phải bỏ vườn hoang. Làng xóm náo động. Dân phiêu
tán, dắt díu nhau đi ăn xin đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được
một bữa no. Nhân dân phần nhiều phải ăn rau ăn củ, đến nỗi ăn cả thịt rắn, thịt chuột,
chết đói chồng chất lên nhau, số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn
có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi[6].
Phạm Đình Hổ (1768-1839) viết trong Vũ trung tùy bút như sau:
Khoảng năm Giáp Ngọ (1774-1775), trong nước vô sự, Thịnh Vương (Trịnh Sâm)
thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy.
Việc xây dựng đình đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên
trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn,
mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán
các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông
chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc.
Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây
cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa
to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc
trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn
người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay.
Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi
khi đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như
trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường. Bọn hoạn quan
cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu
hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ "phụng thủ" vào. Đêm đến, các
cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội
đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí
phải phá nhà hủy tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng,
thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây
cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền
đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng: trước
nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung
nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy[7].
Ở một đoạn khác Phạm Đình Hổ còn cho biết thêm:
Hồi loạn năm Canh Thân (1740), Tân Dậu (1741), tỉnh Hải Dương ta chịu hại về
việc binh đao đến mười tám năm, ruộng đất hầu thành rừng rậm. Giống gấu chó, lợn lòi
sinh tụ đầy cả ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà
ăn. Mỗi một mẫu ruộng chỉ bán được một cái bánh nướng. Tổng Minh Luân ta có một bà
cụ góa mà giàu, người làng bầu cụ làm hậu phần. Vì tiền của bà cụ chất như núi, nên tục
gọi là bà "Hậu Núi". Gặp năm mất mùa, nhà hết cả thóc ăn, bà mang năm bao bạc đi đổi
thóc không được, phải chết đói ở bên xóm chùa Bình Đê. Bấy giờ làng ta bỏ hoang rậm
rạp ngập mắt. Đến khi loạn lạc đã yên, người làng mới từ chốn kinh đô lục tục kéo về,
chặt tranh phá cỏ, đi tìm nhận nền nhà cũ, thu nhặt những xương tàn đem chôn. Nay ở
phía nam đầu làng vẫn còn có một khu nghĩa trang, hàng năm cứ đến rằm tháng bảy,
người làng đem cỗ bàn ra cúng viếng.
Các cụ nhà nho làng ta ngày xưa, như ông nho sinh Phạm Diên Bá, thường nói
chuyện với ta rằng: Đương lúc loạn lạc, ông đi đường về tỉnh Đông, có vào nghỉ nhà hàng
cơm bên đường, thấy mùi thịt rất tanh, trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình
bán nguyệt. Hỏi người hàng cơm thì họ nói đó là thịt lợn lòi. Khi ăn đến nửa chừng, thấy
có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người, vội vàng chạy ra móc cổ thổ ra. Ôi!
Đời xưa bảo rằng "thú ăn thịt người" cũng chưa đến nỗi quá tệ như vậy[8].
Trong khi đó, bữa cơm mà Lê Hữu Trác được ăn trong phủ chúa Trịnh thì: mâm
vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà
đại gia[9]. Có gì đó khiến ta nhớ đến câu thơ Đỗ Phủ: Cửa son rượu thịt để ôi - Có thằng
chết buốt xương phơi ngoài đồng. Cái cảnh sống trong xa hoa tột đỉnh của cha con nhà
chúa cùng bọn quan lớn quan bé, kẻ hầu người hạ trong Trịnh phủ chính là nguyên nhân
cốt lõi gây nên nỗi thống khổ tột cùng của bách tính muôn dân; chẳng phải cũng là một
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ không thể cứu vãn được của triều đình Lê - Trịnh đó sao?
Qua cách kể và tả về Trịnh Cán, có thể thấy thâm ý của đại danh y Lê Hữu Trác.
Bảy tám người là lương y của sáu cung, hai viện ngày đêm chầu chực để chữa bệnh cho
Trịnh Cán xem ra chẳng có tài năng gì. Họ ngày đêm dốc tài khuyển mã chữa bệnh cho
Trịnh Cán mà bệnh tình ngày càng nặng. Quả là không còn dẫn chứng nào sinh động,
đích đáng hơn để người đời hiểu rõ câu ca dân gian: Nhiều thầy thối ma. Hãy nghe
Hoàng lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái kể về sự ra đời của ông con trời này: Khi
Đặng Thị Huệ mang thai Trịnh Cán Chúa liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu sinh
con thánh. Khi Cán được sinh ra, chúa hết sức yêu mến..., lúc đầy trăm ngày, chúa lấy
tên của mình lúc nhỏ là Cán đặt cho nó để tỏ ra nó cũng giống mình. Khoa thi Hương
năm ấy, chúa lấy hai câu:"Sơn xuyên anh lục, hà hải tú chung" (khí thiêng của sông núi
tụ lại, sự tốt đẹp của biển hồ chung đúc nên) để làm đề thi. Các quan văn võ cũng có
nhiều kẻ lấy chữ "Tinh huy hải nhuận" (sao sáng biển hòa, cái điềm sinh thánh nhân) làm
câu chúc mừng[10]. Đây mới là bản lai chân diện mục của Trịnh Cán: bụng to, rốn lồi, da
nhợt gân xanh, chân tay gầy khẳng khiu[11]. Bao công sức tiền của nuôi một lũ ngự y bất
tài không chữa nổi con bệnh. Vậy mà chỉ vừa mới vào phủ, nhìn cung cách sống quá ư xa
hoa và thăm khám con bệnh, một kẻ quê mùa thô lậu ẩn nơi thâm sơn cùng cốc đã bắt
đúng nguồn cơn: Nhưng theo ý tôi, đó là vì thế tử ở trong chốn màn the trướng phủ, ăn
quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da
mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mòn,
thương tổn quá mức. Nếu chỉ lo dùng thứ thuốc công phạt khắc bác mà không biết rằng
nguyên khí càng hao mòn dần thì chỉ làm cho người thêm yếu. Bệnh thế này không bổ thì
không được...[12] Ông vì cái tâm của thầy thuốc với con bệnh và vì cả lòng trung với
nước, (chỗ này theo tôi, là sự minh họa rất chuẩn cho nhận định của Các Mác: tư tưởng
của giai cấp thống trị bao giờ cũng là tư tưởng thống trị thời đạivà dường như có cả vấn
đề tác giả nói cho phải phép, nói để giữ an toàn tính mạng trong chế độ mà ngục văn tự
là nỗi ám ảnh đáng sợ của người cầm bút), mà chẩn bệnh và đưa ra phương thuốc cứu
chữa phù hợp: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại,
nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm
nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài tự nó tiêu dần,
không trị bệnh mà bệnh sẽ mất[13]. Chao ôi! Một đứa trẻ bụng ỏng đít beo, ăn ngủ không
xong mà đã ngấm vào tận xương tủy cái căn bệnh lạy khéo, lại sắp sửa làm chúa thiên hạ
thì quả là cười ra nước mắt, quả là thảm họa cho bách tính muôn dân Đại Việt ta. Lại nữa,
Chúa Trịnh Sâm vì say mê Đặng Thị Huệ mà phế trưởng lập thứ cũng là một việc làm
trái đạo theo quan niệm của nhà nho. Đây có lẽ cũng là một ngầm ý của người viết.
Té ra với những người ở tột đỉnh của quyền lực chính trị đương thời, mục đích
động cơ của họ theo quan niệm chính thống Nho giáo với những mĩ tự thế thiên hành
đạo, chăm lo cho muôn dân khiến họ có thể: Ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ túc dĩ súc
thê tử (Trông lên đủ để phụng sự cha mẹ, nhìn xuống đủ để nuôi vợ con[14], đến thời Lê
- Trịnh này chỉ còn là cái mặt nạ để che đậy mục đích tối thượng là vinh hoa phú quí tột
cùng cho cá nhân và dòng họ mà thôi. Các Mác từng nhận định: lịch sử có những giai
đoạn tự làm nhục những khái niệm mà nó sinh ra. Trịnh Sâm, Trịnh Cán, trong cảnh này
chính là những nhân vật làm nhục khái niệm về vua chúa trong lịch sử chế độ chuyên chế
thời trung đại ở xứ ta.
Cách dùng chữ nói về Trịnh Sâm và Trịnh Cán có ngầm ý phê phán sự tiếm quyền
lộng quyền (Thánh chỉ, Thánh thượng, Đông cung thế tử, đồ nghi trượng...). Đồ dùng của
cha con nhà chúa càng cho thấy rõ điều này: Đi qua độ năm sáu lần trướng gấm như vậy,
đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sập thếp vàng (...) Bên sập đặt một cái
ghế rồng sơn son thếp vàng. (...) Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên
ghế rồng này[15]. Theo quan niệm nhà nho một nước chỉ có một ông vua cũng như thiên
hạ chỉ có một mặt trời; chỉ hoàng đế mới được dùng đồ sơn son thếp vàng, mới có quyền
lập Đông cung thế tử. Nay nhà chúa ngang nhiên hành sử như vậy, thì đó là một điềm báo
nguy cấp về sự suy vong không thể tránh khỏi của chế độ đương thời. Vậy còn vua Lê
đâu? Hoàng Lê nhất thống chí cho biết về vua Lê Cảnh Hưng với câu nói nổi tiếng vô
trách nhiệm: Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái
lo lại về ta, ta còn vui gì?[16]. Trong 47 năm ngồi trên ngai vàng, Lê Cảnh Hưng chỉ làm
cái việc: theo tranh Tam Quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác chia thế trận
ba nước Ngụy, Thục Ngô rồi dạy họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui[17]. Còn đây,
vua Lê Chiêu Thống qua "dư luận quần chúng": Người trong kinh có kẻ không biết là
vua, hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng:"Nước Nam ta từ khi có đế vương
tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng
niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên Tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào
Trung Quốc"[18]. Trong đoạn trích còn một nhân vật nữa được nhắc tới nhiều lần là quan
Chánh đường tức Huy Quận công Hoàng Đình Bảo. Hoàng Lê nhất thống chí cho biết về
nhân vật này như sau: ông ta từng trấn thủ Nghệ An và có mưu đồ phản nghịch. Trịnh
Sâm biết, tìm cách trừ khử. Bảo biết được bèn xin về triều. Lúc ấy trong triều đang có
cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa Trịnh Tông và Trịnh Cán. Huy nghĩ rằng, Thị Huệ tuy
được chúa yêu nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi thế tử đã lớn rồi, hùa theo
Thị Huệ không phải là kế lâu bền. Vì vậy sau khi đã vào hầu chúa, Huy liền lấy châu báu
đút lót cho những kẻ chân tay của thế tử để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy lại đem
một trăm lạng vàng và mười tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến để xin vào ra mắt thế tử.
Nhưng thế tử không nhận đồ lễ cũng không cho vào gặp (...) Quận Huy biết thế tử không
dung mình bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế lập[19]. Được lòng Thị
Huệ, Huy trở nên lộng quyền. Tự đứng làm chủ, mọi việc tự mình gánh vác..., người khác
có đồng ý hay không cũng chẳng thèm kể đến. Ở phố phường người ta túm năm tụm ba
bàn tán, kẻ nói chúa mới (Trịnh Cán) bị bệnh rất nặng, chưa biết chừng ngày nào đó trong
cung sẽ có biến; quận Huy quyền uy lớn quá, không khéo hắn sẽ cướp nước mất. Người
bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp đem xã tắc giao phó cho quận Huy. Bấy giờ đầu
đường xó chợ có câu ca dao như sau:
Trăm quan sáng ít nhiều mờ,
Để cho Huy quận vào rờ chính cung.[20]
Đó là chân dung nhân cách, tâm địa nhân vật tâm phúc của chúa Trịnh Sâm. Còn
trong mắt Ông Già Lười Trên Biển, Quan chánh đường cũng có biết thuốc, tuy kiến thức
về thuốc chưa sâu, nhưng hễ bàn đến thuốc là cứ muốn dùng thứ thuốc công phạt. Thầy
lang quan Chánh đường càng nhiệt tình, con bệnh càng chóng chết mà thôi. Lê Hữu Trác
được trở về Hương Sơn Hà Tĩnh tiếp tục cuộc sống ẩn dật ít lâu thì nghe tin chúa Trịnh
Sâm băng hà, kiêu binh nổi loạn phế Trịnh Cán, phò Trịnh Tông, quận Huy bị kiêu binh
dùng câu liêm móc cổ kéo từ voi chiến xuống, đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
Sau đó, họ phanh thây quận Huy lấy gan ăn sống, còn thây chết thì lôi ra ngoài cửa
Tuyên Vũ, em ruột y là Lí vũ hầu Hoàng Lương cũng bị kiêu binh lấy gạch đá đập vỡ đầu
và vứt xác xuống hồ Thủy Quân, nhà của Huy quận công bị đập phá tan tành một mảnh
ngói cũng không còn[21]. Đó chính là kết cục bi thảm của một kẻ cơ hội hoạt đầu chính
trị điển hình bị bả vinh hoa, mồi phú quí làm cho mờ mắt.
Vua thế, chúa thế, thế tử thế, trọng thần thế... Đại Việt sẽ đi về đâu?
3. Hải Thượng Lãn Ông đâu chỉ bắt mạch kê đơn, bốc thuốc cho thế tử Trịnh Cán,
dường như ông có ngầm ý, thâm ý bắt mạch kê đơn cho căn bệnh trầm kha vô phương
cứu chữa của nhà chúa. Dự cảm của ông về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chúa
Trịnh, của tập đoàn phong kiến chuyên chế đương thời đã được lịch sử minh chứng. Ông
quả là một thần y. Có thể mượn lời F. Ăngghen trong Thư gửi cô Hăckơnet tháng tư năm
1888 khi nhận xét về Bandăc, một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực phương Tây thế kỉ
XIX mà nói rằng: Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã bắt buộc phải đi ngược lại với
những mối thiện cảm giai cấp của mình và với những thiên kiến chính trị của mình, ông
đã nhìn thấy sự diệt vong không thể tránh khỏi của những con người quí tộc thân yêu của
ông, và đã diễn tả những con người ấy là không xứng đáng có một số phận tốt đẹp
hơn...[22]
BÀI MẪU SỐ 3:
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào
cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính.
Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo,
ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về
quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông
được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn
trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân
thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh
cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông:
đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang
của vua chúa thực khác hẳn người thường” (!). Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu
Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam
sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người
dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới
chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết
thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên
trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần
tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân,
trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm
thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu
cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi
hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã
cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành
cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến.
“Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm
ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để
vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn
những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi
đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê
vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người
ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả
những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông
khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm.
Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo
làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng
buộc, không làm sao về núi được (...). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu
nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”.
Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược
lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do
cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết
và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng
thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ
báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi
ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách
được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm
trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy
nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và
có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau
xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi
trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng
được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với
lòng thành kính nhất