
Câu chuyện về bệnh sởi – Phần 1
Sởi là bệnh có tầm quan trọng đặc biệt trong nhi khoa. Trước đây
bệnh xảy ra rất thường xuyên và có tỷ lệ lây nhiễm cũng như tử vong rất cao
nhưng hiện nay không còn phổ biến nhờ vào chương trình tiêm chủng mở
rộng (TCMR).
Theo lời của 1 thành viên của Dự án TCMR quốc gia cho biết tình đến
năm 2004 tỉ lệ lưu hành bệnh sởi ở Việt nam hiện đã giảm đến 573 lần so
với trước năm 1985, thời điểm bắt đầu chương trình tiêm chủng mở rộng
tiêm vaccin sởi cho trẻ từ 9 - 11 tháng tuổi. Tuy hàng năm, trên cả nước ghi
nhận từ 1500-2000 trường hợp mắc sởi rải rác, chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc
vào mùa đông, xuân, nhưng các quan chức thẩm quyền cho rằng thì căn
bệnh này đang được khống chế tốt và dự kiến sẽ bị loại trừ vào năm 2010.
Tuy nhiên từ cuối năm 2008 đến nay, số ca mắc sởi tăng đột biến.
Tính đến ngày 9/2/2009 dịch sởi đã xảy ra tại 11 tỉnh miền Bắc với 370
trường hợp phát ban dạng sởi và tại Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền
nhiễm quốc gia ngày 3/2/2009, có 340 trường hợp ở Hà Nội và các tỉnh lân
cận bị sốt phát ban vào viện, 147 người trong số này dương tính với bệnh

sởi. Trong đó có 8 ca nặng biến chứng viêm não, viêm màng não thể nặng,
hôn mê sâu, rối loạn tim, 3 người phải cho thở máy. Bệnh nhân chủ yếu ở độ
tuổi từ 20-30. Điều bất thường nhất là tỉ suất biến chúng viêm não và viêm
màng não quá cao (8 /147 tức là 54/1.000 trong khi đó tỉ suất biến chứng
viêm não ở trẻ em theo sách vở là 1/1000 ca). Người dân thì xôn xao phân
vân không biết có cần phải đi tiêm chủng hay không, còn chính phủ chỉ đạo
các ngành, địa phương khẩn cấp khai triển các biện pháp ngăn chặn dịch lan
rộng (Công điện 216/CĐ-TTg ngày 10/2/2009 của Thủ tướng chính phủ.
Trước tình hình này, tưởng cũng nên nhắc lại một số điểm về lịch sử bệnh
sởi cùng các vấn đề liên quan.
Một chút về lịch sử
Sở là 1 trong những bệnh cổ xưa nhất mà con người mắc phải, có lẽ
đựơc tiến hoá từ 1 loài virus ở động vật là morbillivirus. Bệnh sởi theo tiếng
Anh là measles, hoặc rubeola, tiếng Pháp là rougeole. Từ measles có nguồn
gốc từ tiếng Đức "masern", đi từ tiếng Bắc Phạn (Sanskrit) “masura," có
nghĩa là "đốm “. Các tác phẩm của các thầy thuốc A-rập cổ đại nhiều lần
nhắc tới bệnh này. Còn người Ý cho rằng đây là 1 bệnh nhẹ theo nghĩa của
chữ "morbillo"

Nguồn gốc của bệnh sởi còn chưa rõ, mặc dù có những loại virus
tương tự gây bệnh ở chó (distemper), ở trâu bò (rinderpest). Chúng ta biết
rằng những bệnh như dịch hạch, sốt chấy rận (typhus) và một số bệnh khác
đều có ổ tự nhiên (natural reservoir) ở động vật. Riêng sởi, trái lại, chỉ gây
bệnh ở người, không có ổ tự nhiên, cho nên sự tồn tại của bệnh sởi trong
cộng đồng phụ thuộc vào sự lây chuyển liên tục (continual passage) từ người
bị nhiễm sang người dễ cảm thụ.
Bệnh sởi có liên quan chặt chẽ với sự tiến hoá của con người. Hàng
ngàn năm trước đây, khi số dân còn ít, sống thưa thớt, tách biệt thành từng
nhóm nhỏ cho nên bệnh sởi khó mà tồn tại trong một nhóm người nhỏ trong
một thời gian dài. Chúng ta biết rằng khi dịch sởi xảy ra trên những hòn đảo
nhỏ cô lập, bệnh sẽ lây lan rất nhanh chóng trong những người chưa có miễn

dịch, nhưng cũng chấm dứt chóng vánh, sau đó trong một thời gian dài sẽ
không có ca bệnh mới, và bệnh chỉ xuất hiện khi nào có virus từ bên ngoài
đưa vào như trường hợp dịch sởi xảy ra tại quần đảo Faroe đề cập dưới đây.
Khi dân số tăng lên, người ta thành lập làng mạc, thị trấn ; và cùng với
sự chuyển dịch giữa các cộng đồng với nhau, cho nên lúc nào cũng có 1
nhóm trẻ em chưa có miễn dịch, và con số này đựơc bổ sung luôn luôn với
số trẻ mới sinh. Lúc ấy, bệnh sởi trở thành lưu hành - tức là sởi luôn luôn có
mặt trong cộng đồng.
Trong tình huống này, ta sẽ thấy 1 chu kỳ cổ điển mỗi 2 -3 năm- một
năm có dịch, là năm mà đa số các trẻ dễ cảm thụ từ 6 tháng tuổi trở lên mắc
bệnh, năm kế tiếp số trẻ dễ cảm thụ còn ít cho nên không còn đủ sức để duy
trì dịch, những trẻ nào "thoát "không bị nhiễm trong năm có dịch thì vẫn có
nguy cơ nhiễm tiếp để duy trì sởi thành bệnh lưu hành.
Sởi đã hiện diện trong quần thể con người khoảng 5000 năm. Người ta
cho rằng bệnh đã có từ lâu khoảng 3000 năm trước CN tại những nền văn
minh phát triển dọc theo các con sông lớn như tại vùng Lưỡng hà (dọc các
sông Tigris và Euphrates). Những mô tả đầu tiên thường không phân biệt
đựơc bệnh sởi với bệnh đậu mùa. Một thầy thuốc Ba- tư tên là Muhammad
ibn Zakariya ar-Razi (860-932), tức là Rhazes theo cách gọi của phương Tây
trong tác phẩm đề cập đến bệnh đậu mùa và bệnh sởi (tức là quyển Kitab fi

al-jadari wa-al-hasbah theo tiếng A-rập) đã mô tả có tính khoa học về bệnh
sởi đầu tiên và phân biệt đựơc bệnh sởi với đậu mùa và thuỷ đậu nhưng lại
cho rằng 2 bệnh sởi và đậu mùa có chung một nguyên nhân. Rhazes cho
rằng bệnh sởi lộ ra ban (hasbah) và coi đây là 1 biến thể của bệnh đậu mùa.
Có 1 đặc điểm đựơc ghi nhận là bệnh sởi gây "tâm trạng lo lắng, cảm giác
bệnh tật và nặng nề ở tim "nhiều hơn là bệnh đậu mùa.
Sách y học bằng tiếng A-rập của Rhazes
Ta cũng biết rằng bệnh đậu mùa không có ổ bệnh tự nhiên, có lẽ trong
quá khứ cũng có kiểu thức bệnh dịch-lưu hành tương tự như bệnh sởi, cho
nên trong một thời gian dài đựơc coi như là một chứng bệnh với 2 kiểu biểu
hiện khác nhau.
Thomas Phaer, trong quyển sách "The Booke of Children", ở chương
"Bệnh đậu mùa và bệnh sởi "có viết như sau : đây là bệnh phổ biến, có 2
dạng bệnh -bệnh sởi và đậu mùa, mà ta gọi là bệnh trái trời. Chúng có
chung 1 bản chất và phát xuất từ 1 nguyên nhân.

