
Chiến lược trong “sự đổ vỡ có cấu trúc”
Trong suốt những thời điểm khó khăn, một sự đổ vỡ có cấu trúc trong nền kinh tế chính
là một cơ hội được cải trang. Để tồn tại – và cuối cùng là để trở nên thịnh vượng – các
công ty phải học cách khai thác cơ hội đó. Để sàng lọc suy nghĩ thì chẳng có gì hay hơn
sự khủng hoảng. Vì vậy, bạn phải luôn có chiến lược trong những thời điểm khác nhau và
biến động bất thường. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là hầu hết những điều mà mọi
người vẫn gọi là chiến lược – những tuyên bố sứ mệnh, các mục đích táo bạo hay những
kế hoạch ngân sách ba đến năm năm. Điều muốn nói ở đây là một chiến lược thực sự.
Đối với nhiều nhà quản lý, cụm từ này vừa
trở thành những từ cửa miệng. Trong khi đó,
biệt ngữ kinh doanh này từng chuyển tiếp thị
thành chiến lược tiếp thị, xử lý dữ liệu thành
chiến lược công nghệ thông tin, mua bán
công ty thành chiến lược tăng trưởng và với
cắt giảm giá thành thì chúng ta có chiến lược
giá thấp. Việc đánh đồng chiến lược với sự
thành công, sự táo báo hay tham vọng sẽ luôn
tạo nên sự hỗn loạn hơn nữa. Nhiều người
vẫn đang gán cho bất cứ điều gì liên quan tới
chữ ký của CEO thành mang tính chiến lược
– một sự định nghĩa dựa trên mức lương của
người ra quyết định chứ không phải chính
quyết định đó.
Và nhờ chiến lược – điều có nghĩa rằng sự
đáp trả dính liền với thách thức – người ta

hiểu ra rằng: một chiến lược thực sự không
phải là một tài liệu hay dự đoán mà đúng hơn
là một biện pháp tổng thể dựa trên sự chẩn
đoán về một thách thức. Vì vậy, thành tố
quan trọng nhất của chiến lược chính là quan
điểm chặt chẽ về những lực lượng thực hiện
chứ không phải kế hoạch.
Điều gì đang diễn ra?
Những sự kiện của năm qua từng gây sửng
sốt nhưng không có gì lạ thường. Theo diễn
biến chung từ trước tới nay, các vụ bong
bóng đất đai, tín dụng dễ dàng và mức lãi
suất cao thường tạo nên một tổ hợp nguy
hiểm. Khoản nợ bất động sản đã làm bùng
lên thời kỳ suy thoái đầu tiên của nước Mỹ
vào năm 1819. Một quả bom thế chấp đất đai
đã được giấu trực tiếp sau cuộc khủng hoảng
từ 1873 đến 1877: những hình thái đổi mới
của việc cho vay mượn thế chấp ở châu Âu
và Mỹ đã tạo nên một quả bom không thể
chống đỡ nổi về giá nhà đất, và tình trạng
đình trệ toàn cầu suốt bốn năm đó đã kéo
theo sự sụp đổ thị trường nhà đất cũng như

việc thắt chặt tín dụng bên cạnh nó. Đợt thắt
chặt tín dụng khác, điều từng được châm ngòi
bởi thất bại của những tín phiếu đường sắt
được mua bán công khai, dẫn tới Tình trạng
suy thoái Dài của những năm từ 1893 đến
1897. Thời kỳ “thập kỷ mất mát” từ năm
1995 đến năm 2004 của Nhật Bản xảy ra do
giai đoạn lãi suất cao và giá trị đất đai bị thổi
phồng một cách điên rồ trước đó đã đưa tới
một kết cục phá sản tài chính.
Lực đòn bẩy chính là cốt lõi của những câu
chuyện như vậy. Ác-si-mét từng nói: “Hãy
cho tôi một chiếc đòn bẩy đủ dài và một điểm
tựa vững chắc, tôi sẽ bẩy cả trái đất lên.” Tuy
nhiên, nhà bác học đã không bổ sung rằng
cần phải có một cái đòn bẩy dài bằng nhiều
năm ánh sáng để dịch chuyển được Trái đất
dù chỉ bằng chiều rộng của một phân tử, và
nếu Trái đất có dịch chuyển thì phản lực từ
chiếc đòn bẩy cũng sẽ hất ông lên nhanh nhất
và văng ra xa. Tình trạng khủng hoảng hiện
nay cũng chính là phản lực từ lực đòn bẩy tại
hai nơi: các hộ gia đình và những dịch vụ tài

chính. Và nếu không có lực đòn bẩy, tình
trạng suy sụp kinh tế sẽ là điều thất vọng,
trong khi những khoản thế chấp sẽ không còn
bị tịch thu thế nợ cũng như các công ty không
còn phá sản nữa. Chính lực đòn bẩy xoa dịu
nỗi đau trong những làn sóng từng được
khuyếch trương lúc trước.
Hầu như ai cũng biết đến cách mà những
động lực này đã thực hiện. Khoản nợ hộ gia
đình Mỹ đã bắt đầu gia tăng ngay đầu những
năm 1980 và sức tăng trưởng của nó đã phát
triển nhanh hơn vào năm 2001. Lực đòn bẩy
giữa năm nhà môi giới chứng khoán lớn nhất
Phố Wall – những lái buôn (Goldman Sachs,
Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bear
Stearns và Morgan Stanley) đột nhiên tăng
mạnh sau năm 2004 khi Ủy ban Giao dịch và
Chứng khoán Mỹ miễn thuế cho những hãng
này từ giới hạn tỉ lệ nợ trên vốn (tỉ suất đòn
bẩy – leverage ratio) 12 trong một thời gian
dài xuống còn 1 và cho phép tự điều chỉnh.
Từ năm 1990 tới năm 2007, toàn bộ khu vực
dịch vụ tài chính đã mở rộng 2,5 lần nhanh

hơn toàn bộ GDP và từ năm 1947 đến năm
1996, lợi nhuận của khu vực này đã tăng
trung bình 0,75% GDP tới 2,5% vào năm
2007. Sau đó, việc sụt giảm giá nhà đã dẫn
tới một sự gia tăng chưa từng có về tốc độ
tịch thu thế nợ và sự rớt giá trị của những
chứng khoán dựa trên thế chấp. Tình trạng
xuống dốc này nhanh chóng phá hủy các
hãng tài chính có lực đòn bẩy cao – những
hãng mà thất bại của chúng gieo rắc sự thua
lỗ và tình trạng không chắc chắn trong suốt
hệ thống tài chính. Người tiêu dùng Mỹ vẫn
tiếp tục đầu tư ở mức cao trong cả nửa đầu
năm 2008 nhưng tới quý ba đã giảm bớt 3,1%
lãi suất hàng năm. Tình trạng suy thoái kinh
tế - một sự tiềm ẩn sâu xa – thực sự đã xuất
hiện.
Sự đổ vỡ có cấu trúc
Việc nhận thức rõ ý nghĩa của những sự kiện
này thực sự khó hơn việc kể lại chúng một
cách chi tiết. Có lẽ do chúng ta đang tập
trung vào sự đổ vỡ có cấu trúc với quá khứ -
theo lối nói của môn toán kinh tế thì đó là nơi