Chnghĩa lịch sử mới, một
chuyển biến trong lòng ch
nghĩa hậu hiện đại
Ch nghĩa lch sử mới (New historicism) là một trong những biểu hiện đu tiên ca
ch nghĩa hu hin đi từ chỗ giải cấu, phản nghịch, vứt độ sâu, phá bỏ tất cả, nhưng đó ch
là triệt để phá để mà xây cái mi, và tất yếu sẽ hồi quy văn học về bình din lịch sử xã hội,
hiển nhiên là với những khía cạnh mi trên cơ sở những cách nhìn mới. Chủ nghĩa hình
thức, Phê bình mi và nhất là ch nghĩa cấu trúc chỉ coi trọng ngôn ngữ, xem văn bản tác
phẩm chỉ là một kiểu tổ chức li văn, một cấu trúc tự thân, v.v... mặc dù nhiều khám
phá, nng không nh đến việc biểu hiện và phản ảnh nhân tâm thế sự gì cả, cái cấu trúc
văn bản tác phẩm ấy, đếnc phải tự phá vỡ, phi đươc phân giải. Chủ nghĩa giải cấu trúc
(Déconstructionisme) ra đời lại cho rằng “cái biu đạt” thật ra ch biểu đạt một “cái biểu
đạt” khác mà thôi; cấu trúc văn bản tác phm, do đó chỉ sn sinh ra “một dải ngân hà ca
i biểu đạt”, nghĩa là ai muốn hiểu sao tuỳ thích. Cấu tc khép kín lại thì bế tắc, phi phân
giải ra thì phiêu diêu định, tuy rất khác nhau, nhưng chung một gốc là đều tách rời tác
phẩm văn học ra khỏi bốí cảnh lịch sử xã hội. Chính những lý thuyết gia của chủ nghĩa giải
cu trúc đã có những thoáng băn khoăn về điều này: “Văn hc hay lịch sử?(R. Barthes);
“Phải ợt qua chủ nga hình thc” (G. Hartman). Thế là vào cuối thế kỷ trước, ch nghĩa
hậu hiện đại đã dn dần bộc l cái xu thế phải trả văn học về vi nơi chôn nhau cắt rốn của
, tức là phải gắn văn học với lịch sử xã hội mà xem xét. Nhưng vquê cũ không theo lối
mòn xưa, tức là không theo ch nghĩa lịch sử vốn dựa trên quyết định luận khách quan.
Trái lại chủ nghĩa lịch sử mới lại đặt nền tng trên mối quan hệ giữa ch thể với lịch sử.
Nhưng cũng như bất kỳ trường phái luận phê bình o khác, ch nghĩa lịch sử mới cũng
phải được mở đầu bằng một số nhà lý luận như Hayden White, Jonathan Dollimore, Louis
Adrian Montrose, v.v…
Nhưng tiêu biểu hơn cả là Stephen Greenblatt (1943- ?), giáo sư Đại học Beckley
Hoa k, chuyên giảng dạy văn học Anh. Công trình đầu tay là WalterRaleigh: Nhân vật
văn học Phục hưng cùng vai trò của (1972) chưa có tiếng vang gì đáng kể. Thi đầu
này ông còn kiêm ging dạy môn Mỹ học mác-xít, nhưng theo quan đim chiết trung,
đến nỗi ngay trong ging đường có sinh viên ngngáo đã đứng phắt dậy chửi luôn: “Sao
ông lúc t bonshevit, lúc t menshevit thế? Mẹ ông chứ! Haii phải chọn một mới
phải!. Đó là một cú sốc đối với một ging viên mi trên dưới ba mươi! S. Greenblatt
lng lẽ quay về với chuyên môn vn có ca mình là tiếp tc đi sâu nghiên cứu và giảng
dạy Văn học Phục hưng Anh. Thế rồi nhiều năm sau, ông cho công bố công trình Tạo
hình cho cái Tôi trong thời kỳ Văn nghệ phục hưngtừ More đến Shakespeare vang dội
một thi. Như một nguồn mạch được khai thông, S. Greenblatt liên tục cho ng bố
những công trình tiếp theo: Tái hiện nền văn nghệ Phục hưng ở Anh (1987), Thương
lượng với Shakespeare (1988), Học tập từ tai ương (1990); Lĩnh vực tuyệt vời(1991),
v.v... Qua đây, S. Greenblatt tuyên bố ông đã xây dựng được môn Thi học văn hoá
xuyên thm chủ nghĩa lịch sử mi. Như thế sau đây sẽ trình bày vấn đề chủ nghĩa tân
lch sử mới đã được thể hiện từ bình diện văn học sử (Văn học thời Phục hưng)
đến bình diện luận văn học - nội dung của một loại Thi học văn hoá.
I) Stạo hình cái Tôi trong Văn học phục hưng
Nghiên cứu sự tạo hình cái i trong văn học Phục hưng, S. Greenblatt xuất phát
tnim tin cho rằng thế kỷ XVI ở Anh không những đã sản sinh ra cái i, mà cái Tôi
này cònthmang lại một ý thức tạo hình. Cho cái Tôi chính tính chủ thể của con
người, ông đã u ra hai lun điểm:
a) Cái Tôi là những cảm thụ về sự tồn tại của cá nhân, là phương thức độc đáo mà
nhân dựa vào đó để nói chuyn với thế giới, là một cấu trúc mà nhng ham muốn
nhân phi tự ràng buộc, là những nhân tố tác động vào vic hình thành và phát trin của
tính.
b) Thi đại Văn nghệ phục ng quả là đã sinh thành một loại ý thức về cái Tôi
(self-consciousness) ngày càng ln mạnh, và từ đó đã đem những tố chất của những cá
tính trong nhân loi làm thành một quá trình thăng hoa trong nghệ thuật. Sự tạo hình cái
Tôi phi được hình thành trong sự “hợp lực” giữa cá nhân vi văn h xã hội, bao gồm
sự tự xác định, tức là quyền lực ý c ca cá nhân, cùng sức mnh kẻ khác tức là nhng
quy ước xã hội, quyền lực của gia đình và nhà nước. Quá trình xây dng ý thức cái Tôi
là quá trình hình thành cáii về mặt “sức tạo hình nội tại”. Bản thân việc tạo hình
(fashioming) về bản chất là một sự nhào nn, thay đổi, cải biến. Đây sẽ không chỉ đơn
thuần là tạo hình ý thức cái Tôi, mà đồng thời còn là snhào nặn nhân tính và là sự biểu
hiện ca ham muốn bằng hành động ngôn ngữ(1).
Chịu ảnh hưởng quan niệm ca M. Foucault, một bậc tiên phong ca tư duy hu
hiện đại, S. Greenblatt cho rằng trong mối quan hệ giữa văn học và lịch sử có bao hàm
mối quan hệ giữa nhân vật văn học với h thống “quyn lực” trong hiện thực lịch sử.
Tạo hình cho cái Tôi, do đó, là hiệu quả của một cơ chế điều tiết “quyền lực”, bởi vì
không hề tồn tại nhân tính độc lập bên ngoài nền văn hoá chung. Nhân tính cùng mọi s
nhào nn chúng đều nằm trong hệ thống diễn ngôn của phong tục, tập quán, truyền
thống, tức là bị chi phối bởi một h thng văn hoá mang những ý nghĩa đặc thù, da vào
sự biến đổi tương tác với nhau được khống chế từ những kh năng trừu tượng đến những
sự vật tượng trưng lịch sử cụ thể, từ đó sáng tạo n được những cá tính nht định của
thời đại.
Văn học không những không rong chơi bên ngoài hệ thống din ngôn n hoá, mà
trái li, đã trở thành lực lượng trung kiên của nó, phát huy được những chức năng đặc
biệt theo ba phương thức liên quan với nhau. Đó là sự thể hiện những hành động c thể
của những nhà văn nhất định, là sự biu hin những mã ch cấu thành hành vi quy phm
của tác phẩm văn học, và cui cùng là sự quan sát phn tỉnh đối với những mã ch đó.
Như thế, văn học không đơn thuần phản ảnh hiện thực xã hội, mà còn tác động ngược lại
đối với xã hội, th hiện từ động cơ sáng tác của nhà văn, khuynh hướng của tác phẩm và
cả trong sự tiếp nhận chủ động của ngưi đọc. Như thế, ở đây không có hiện thực lịch sử
thuần tuý, mà là xuyên thấm mối quan hệ tương tác giữa chủ thể với lịch sử. Văn học
chính là hệ qu của sự tương tác ấy.
Nghiên cứu văn học cũng vậy, không chỉ là câu chuyn khảo cổ, mà là sự cộng
minh nhân tính. Nghiên cu văn học thời đại Phục ng, đã đành là do tính mơ hồ của
lch sử quá khứ, không thể đưa ra được nhữngn cứ khách quan toàn diện về ngữ nghĩa
tác phm, người nghiên cứu cũng không thể nào quên hẳn bản thân người thời nay đ
hoàn toàn sng trong môi trường xã hội và văn hoá văn học thế kỷ XVI, v.v... Nhưng
chính nhng điều này, chnghĩa lịch sử mới lại không nhn mnh. Nghiên cu văn học
Phục hưng, S. Greenblatt lại ngầm triển khai cuộc đối thoại về những thnghiệm nhân
sinh giữa những con người của hai thế kỷ XX và XVI. Nghĩa là nghiên cu n học sử,
không ch thuần t trình bày phương din lịch sử, mà phải xuyên thm sâu sắc phương
diện chủ thể. Trong “Lời nói đầu” ca To hình cho cái Tôi trong nền Văn nghệ Phục
hưng - từ More đến Shakespeare, S. Greenblatt có viết: Tôi không hề lùi bước trước
tính đa nghĩa hỗn tạp, nó chính là điều mà phương pháp nghiên cứu mi phải trả giá,
thm chí đây cũng chính là ưu điểm của nó. Tôi đã từng thử sửa chữa những ý nghĩa
không xác định, những sai sót thiếu tính hoàn chỉnh. Phương pháp của nó là không
ngừng trở về vi những kinh nghiệm và hoàn cnh đặc thù của cá nhân, rồi quay trở lại
với những nhu cầu vật chất và áp lực xã hội mà những người đàn ông và đànthời ấy
hàng ngày gặp phi, rồi tập trung vào mt bộ phận giàu tính cng hưởng của văn bản.
Mỗi chương của loại n bản này đều được xem như là những tiêu điểm thấu thị v
những đường giây giao thoa giữa các sức mạnh văn hoá thế kỷ XVI. Đối với chúng ta, ý
nghĩa ca chúng, không phải là thông qua chúngthể thấy được những nguyên tắc lịch
sử bị che giấu để làm tin đề, mà là dựa vào những đim nhìn của những tác giả này
cùng những trường diện xã hội, đểth giải tch những kết cấu tượng trưng cho sự
tác động lẫn nhau giữa hain, đồng thời xem cả hai đã làm nên quá trình tạo hìnhi
Tôi vừa hoàn chỉnh vừa rất phức tạp. Thông qua sự giải thích này, chúng ta mới có thể
lý giải được đặc trưng ca mi quan hệ đặc trưng giữa văn học và xã hội được hình
thành trong văn hoá như thế nào… Có nghĩa là, chúng ta có thể thu được sự lý gii c
thể liên quan đến kết quả biểu đạt ca nhân loại. Bởi vậy, xét từ mỗi loại cáii nhất
định mà nói - cái Tôi” này là một hình thc quyền lực đặc thù, quyn lực của nó vừa
tập trung trong một số cơ cấu chuyên biệt - như toà án, giáo hi, chính quyền thực dân
và tổ chức gia đình - đồng thời cũng phân n trong cơ cấu hình thái ý thức đầy ý nghĩa
và trong những phương thức biu đạt vn có, cũng như trong những mô thức tự sự
thường xuyên lp li”(2). Qua đây có th thy mấy điều như sau: Một là, đi u vào bất
cứ văn bản văn học riêng biệt nào cũng không thể chỉ dừng li ngôn ngữ văn tự, mà
phải “không ngừng trở vvới thnghiệm cá nhân và hoàn cnh đặc thù”, trở về vi cái
gốc lịch sử ca nhân tính, với tính thống nhất nguyên sơ của sự tạo hình nhân cách cái
Tôi, với “m cảnh đồng nhất” có thể đạt đến giữa cá thể với cộng đồng… Điu này là
để phân biệt với chủ nghĩa hình thức, những điểm tiếp theo sau lại để phân biệt với chủ
nghĩa lịch sử cũ. Hai là, bt k sự lý gii nào đối với tác phẩm quá khứ đều không thể
vượt qua cái hố ngăn cách của lịch sử để có thể tìm đến i gi là “nguyên ý”. Trái li,
sự giải thích đối với bất cứ văn bản nào cũng là sự đối thoại giữa hai thời đại, hai cõi
m linh, cũngnghĩa là sự giải thích li ý nghĩa được hiểu trước kia của văn bản, bởi
mọi thứ lịch sử đều có thể trở thành lịch sử đương đại. Điều nàybóng dáng quan
nimdung hợp tầm nhìn” của Gadamer. Ba là, lý gii văn bản tác phẩm nào cũng phải
trở về vii ngữ cảnh lịch sử, đồng thời cũng tức là trvề vớii kết cấu của “diễn
ngôn quyn lực” lúc bấy giờ. Như thế phải làm ng tmi quan hệ giữa tạo hình và b
tạo hình của cái Tôi, giữa ngôn ngữ bản thân vi ngôn ngữ quyền lực, giữa sự “biểu
trưng” của sinh mệnh bản thân với vn mệnh b ngôn ngữ quyn lực áp chế. Cho nên đi
sâu vào văn bản tác phẩm văn học quá khứ, phải làm sáng tỏ đâu là ý thức của cái Tôi bị
đồng hoá bởi hình thái ý thức chủ đạo, đã đánh mất đi sự tỉnh táo đáng lẽ phải được kiên
trì, song vn còn giữ được tư tưởng, ý nghĩa, chủ đề của kinh nghiệm cá nhân, đâu là
những biu hiện ca cấu quyền lực áp chế trong văn bản, n nữa phải nỗ lực tìm đến
những rạn nứt tư tưởng, những ý tưởng mới lạ nảy sinh trong sự đối kháng ca những
phép tắc tâm linh thể với cơ cấu của hình tháí ý thức. Triển khai vấn đề như vậy chắc
chắn sẽ tạo ra một trường din rộng rãi cho sự cộng ng đối với tâm linh của con
người hiện đại. Rõ ràng quan nim này có chịunh hưởng của M. Foucault .
Quán triệt những quan điểm trên, thàng nghìn tác phm thời Phục hưng ở
Anh, S. Greenblatt đã chọn ra tác phẩm của năm nhà văn là T. More, T. Wyatt, E.
Spencer, C. Marlo, W. Shakespeare v.v... những mong thông qua sự nghiên cứu cá thể