intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chứng minh Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là áng hùng văn của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Chia sẻ: La Cau | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

114
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân. Ngày nay, đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, chúng ta cảm nhận thấy hào khí của lời kêu gọi cứu nước, đồng thời cũng thấy trong văn kiện lịch sử này những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự. “Hỡi đồng bào toàn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chứng minh Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là áng hùng văn của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

  1. Chứng minh Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là áng hùng văn của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Bài làm Ngày 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân. Ngày nay, đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, chúng ta cảm nhận thấy hào khí của lời kêu gọi cứu nước, đồng thời cũng thấy trong văn kiện lịch sử này những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự. “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa” Hãy nhớ lại tình hình lúc ấy: nước ta vừa giành được độc lập thị ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23 – 9 – 1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người kí với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định Sơ bộ ngày 6 – 3 – 1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo
  2. đuổi chính sách thống trị Việt Nam. Còn nước còn tát, Hồ Chí Minh kí với Chính Phủ Pháp tạm ước 14 – 9 – 1946. Ngày 16 – 09 – 1946, Người rời cảng Tulông (Pháp) trở về nước. Ngày 16 – 10, Người gặp Đác-giăng-li-ơ ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí. Trước tình hình đó, ngày 18, 19-12 năm 1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc. Từ ngày 3 đến ngày 19 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Đông) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương, tại đây ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. 20 giờ này 19-12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20-12 tại Hang Trầm (Chương Mĩ, Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiếncủa Hồ Chủ tịch. Như vậy mặc dù Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng ngừng”, đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, Hồ Chí Minh phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược. “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan
  3. điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Khi đã buộc phải kháng chiến thì Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu; “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Hồ Chí Minh tuyên bố quyết tâm của nhân dân ta: “Thà hi sinh tất cả, chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Tiếp theo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ hơn 80 năm. Bởi vậy ta có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hi sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy. “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
  4. Trong lời kêu gọi này, Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là ở hai chữ toàn dân. Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên lí của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quần chúng trong lịch sử, Người luôn luôn nhắc nhở vai trò của dân: “Dựa vào dân, có dân là có tất cả”. Trong lịch sử dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã từng nói: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Tư tưởng “chiến tranh toàn dân” đã được Hồ Chí Minh nêu lên năm 1944 trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân. Chỉ thị này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp theo Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn dân tộc. Hồ Chí Minh có một lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”.
  5. Hưởng ứng lời kêu gọi này, quân và dân Hà Nội, mùa đông năm 1946 đã nêu cao tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” nay đã trở thành truyền thống của Thủ đô. Xây dựng bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần của bộ đội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở cho mọi mặt xây dựng quân đội là một quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng. Kết thúc lời kêu gọi, Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định thuộc về dân tộc ta. Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!” Lời tiên đoán này của Chủ tịch Hồ Chí Minh chín năm sau đã trở thành sự thật với chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Ba mươi năm sau đội quân bách chiến bách thắng của Người đã cắm cờ chiến thắng lên nóc dinh độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh nười nghìn ngày đem lại độc lập thống nhất cho đất nước. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Hịch cứu nước của Tổ Quốc, là một áng hùng văn sáng chói những nét đặc sắc của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2