
Lời mở: Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, có khá nhiều tác giả thành công về đề
tài miền núi trong đó có Nguyên Ngọc và Tô Hoài. Nếu mảnh đất miền Tây đã “để nhớ
để thương” cho Tô Hoài để suốt đời người nhà văn này như còn mang duyên nợ thì với
Nguyên Ngọc, “Tây Nguyên với tôi là một niềm tâm sự không bao giờ dứt”. Cái mảnh
đất hoang sơ, nồng hậu mà anh hùng bất khuất đã để lại bao tình cảm thắm thiết trong
trái tim nhà văn để rồi sẽ làm nên một Nguyên Ngọc với những tác phẩm viết về Tây
Nguyên vào hàng xuất sắc nhất của văn đàn cách mạng Việt Nam, làm xúc động nhiều
thế hệ bạn đọc. Trong đó có truyện ngắn Rừng xà nu.
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Là nhà văn có những đóng góp riêng và có vị trí khá nổi bật trong nền văn học Việt
Nam.
- Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc) tên khai sinh là Nguyễn Văn
Báu (5/9/1932) chàng trai quê ở một huyện Thăng Bình kề biển Quảng Nam, nhưng
lại có duyên đặc biệt với núi rừng. 1950, khi đang học trung học chuyên khoa trong
vùng kháng chiến, gia nhập quân đội, lăn lộn trong phong trào kháng chiến ở Liên khu
5. Sau Hiệp định Giơ ne vơ, tập kết ra Bắc, công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Năm 1962, lại trở lại chiến trường miền Nam, hoạt động ở Khu Năm. Hơn chục năm
ròng sống và chiến đấu hết sức kiên cường trên những chiến trường nóng bỏng, trực
tiếp chịu đựng và chứng kiến bao nhiêu gian khổ và hy sinh đã cho Nguyên Ngọc một
vốn sống rất phong phú về Tây Nguyên. Từ thuở thanh xuân cho tới khi đầu bạc, chưa
bao giờ Nguyên Ngọc thôi suy tư, tìm hiểu, sống sâu với văn hóa Tây Nguyên. Có thể
nói, ông là người vinh dự cầm bó đuốc mở đầu cho nền văn học hiện đại viết về Tây
Nguyên và cho đến nay, dường như ông vẫn là nhà văn viết hay nhất về mảnh đất này.
- Một vài tác phẩm tiêu biểu: tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” (1956), truyện ngắn
“Rẻo cao” (1962), truyện ngắn “Rừng xà nu” (1965), tiểu thuyết “Đất Quảng”
(1971)…
2. Tác phẩm
2.1. Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời truyện ngắn “Rừng xà nu”
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm
hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền
Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền
Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời
RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành

2
Thuvientoan.net
điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở
khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ, ra mắt lần đầu tiên trên tạp chí Văn
nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ” số 2/1965, sau đó in trong tập “Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc”. Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số các sáng
tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm kháng chiến chống Mĩ.
2.2. Cốt truyện
- Ý chính: Sau ba năm đi lực lượng, Tnú trở về thăm làng Xô Man. Cụ Mết kể cho dân
làng nghe về cuộc đời, sự trưởng thành của Tnú cùng quá trình quật khởi của làng Xô
Man: Tnú mồ côi từ nhỏ, dân làng ô Man nuôi dưỡng, được giác ngộ, tham gia cách
mạng, Tnú chiến đấu gan góc, thông minh, trở thành người chỉ huy cuộc đồng khởi
của làng Xô Man. Sau đó, Tnú tham gia lực lượng Giải phóng quân. Như vậy, tác phẩm
có sự đan cài hai chiều: hiện tại - quá khứ - hiện tại, gắn với hai câu chuyện lồng ghép:
cuộc đời đau thương mà anh dũng của Tnú - tuyến chính, phần cốt lõi và sự vùng lên
của dân làng Xô Man, qua đó, ta thấy sự gắn bó giữa số phận cá nhân và vận mệnh
chung của cộng đồng.
- Xung đột chia truyện thành hai phần rõ rệt: phần đau thương - khi dân làng và Tnú
chỉ có tay không và phần chiến thắng - khi Tnú và dân làng nổi dậy cầm vũ khí làm
nên cuộc đồng khởi lay trời chuyển đất. Qua đó, tư tưởng chủ đề của truyện được khắc
ghi như một chân lí lịch sử: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải
nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là điểm quy tụ
cảm hứng nghệ thuật của tác giả và soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
2. 3. Chủ đề
- Là thiên truyện mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại,
tác phẩm đã tái hiện lại vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng, của con người và truyền
thống văn hóa Tây Nguyên trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thông qua câu
chuyện về những con người ở một bản làng bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, tác
giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa lớn lao: để sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi
trường tồn, không còn cách khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống
lại kẻ thù.
II. Đọc hiểu văn bản (theo hệ thống hình tượng)
1. Hình tượng thiên nhiên: Rừng xà nu.
1.1. Vị trí của hình tượng: Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình
tượng cây xà nu - rừng xà nu nổi bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa thực,
vừa mang ý nghĩa tượng trưng.
1.2. Sự xuất hiện của xà nu
- Trong cấu trúc văn bản: Mở ra: đồi xà nu, khép lại: những rừng xà nu nối tiếp chạy
đến chân trời. Tác dụng: câu chuyện về gươm đao bắn giết tàn khốc lại được gói trọn
trong một điệp khúc xanh. Không gian mở rộng thể hiện sức sinh sôi, sự sống mạnh

3
Thuvientoan.net
hơn cái chết và sự huỷ diệt. Tạo cấu trúc điệp vòng tròn, hình tượng xuyên suốt, mang
tầm vóc sử thi.
- Ở hệ thống các tình tiết: xuất hiện rải rác trong thiên truyện: Trong đời sống sinh
hoạt: khói xà nu xông bảng nứa để Tnú và Mai học,… và gắn với các sự kiện quan
trọng của dân làng Xô Man: sự vùng dậy, cả làng bí mật mài vũ khí, Tnú bị tra tấn…
xà nu trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt và cuộc kháng
chiến chống Mĩ của người Tây Nguyên.
1.3. Ý nghĩa tả thực: được miêu tả cụ thể như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền
đất Tây Nguyên, gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh
hoạt hàng ngày, trong đấu tranh chống giặc; trong kí ức của người Xô Man...
1.4. Ý nghĩa biểu tượng:
- Rừng xà nu là biểu tượng của đau thương: đồi xà nu ở trong tầm đại bác… ngay từ
những dòng đầu tiên, xà nu đã được đặt trong cảnh liên quan đến sự huỷ diệt dữ dội,
tàn bạo. Đây là thử thách lớn, nghiệt ngã với rừng xà nu. Hàng vạn cây không có cây
nào không bị thương như khi giặc kéo đến làng Xô Man, ngọn roi của chúng không trừ
một ai... tả ba cái chết của xà nu, hình ảnh những cây non bị huỷ diệt tạo cảm giác xa
xót.
- Rừng xà nu là biểu tượng của vẻ đẹp nên thơ và sức sống bất diệt: Ở chỗ vết thương:
nhựa ứa ra, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, tác giả đã huy động ấn tượng
khứu giác (thơm ngào ngạt) và ấn tượng thị giác (long lanh) để miêu tả chất nhựa xà
nu với vẻ đẹp thi vị. Trong rừng ít loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy - so sánh làm
nổi bật sức sống hiếm có của xà nu.
- Rừng xà nu là biểu tượng cho sự nối tiếp các thế hệ: Cạnh một cây xà nu mới ngã
gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên
bầu trời - nguồn sống bền bỉ, ngạo nghễ, ngang tàng, như cỏ dại, như suối nguồn ào ạt.
- Rừng xà nu là biểu tượng cho niềm khao khát tự do, sức mạnh kiên cường bất khuất:
Ham ánh sáng mặt trời, phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong
rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, long lanh vô số hạt bụi vàng từ nhựa
cây bay ra, thơm mỡ màng. Câu văn có sự thăng hoa của hai vẻ đẹp: vẻ nên thơ và sức
mạnh cường tráng, bất khuất, sự khao khát tự do. Ham ánh sáng mặt trời là bản năng
tồn sinh dẻo dai, luôn hướng về phía ánh sáng, hướng về sự sống. Những động từ
mạnh: ham, phóng, đón - tư thế chủ động chiếm lĩnh - khao khát sống, khả năng sống
tiềm tàng mãnh liệt. Hương thơm của nhựa cây tiếp tục được đan chiếu ánh xạ trong
hai chiều cảm nhận: thị giác, khứu giác. Hạt bụi vàng: những hạt bụi dưới ánh sáng
mặt trời từ trên cao rọi xuống giống như những hạt bụi long lanh - tác giả đã thơ hoá
một hình ảnh bình thường. Thơm mỡ màng: không phải “thơm ngào ngạt” (cùng sắc
độ đậm đặc, mạnh), không phải “thơm dìu dịu” (sắc độ nhẹ) mà là thơm mỡ màng là
mùi hương như ngậm một nguồn sống dồi dào. Có những cây: vượt lên được, cao hơn
đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác

4
Thuvientoan.net
không giết nổi chúng những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể
cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…
- Rừng xà nu là biểu tượng cho vẻ đẹp của tinh thần hào hiệp, khảng khái, giàu chịu
đựng và biết hi sinh: Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu đã ưỡn tấm ngực lớn ra, che
chở cho làng - rào chắn, điểm tựa, áo giáp che chở cho cuộc sống dân làng Tây Nguyên
=> thái độ trân trọng, hàm ơn (Liên hệ: “Tre Việt Nam” - Nguyễn Duy)
1.5. Nhận xét về nghệ thuật:
- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng, khi đặc tả
cận cảnh một số cây. Nhà văn xoay ống kính từ ngoài vào trong, từ nhìn ngắm tổng
quát đồi xà nu hàng vạn cây đến thâm nhập vào từng tế bào xà nu, khám phá chất nhựa
thơm ngào ngạt – cái mùi thơm của sự sống bất tử.
- Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc
dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng...
- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình
thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ
hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người,
về đời sống. Xà nu không chỉ hiện lên ở phương diện sinh vật học với đặc tính dẻo dai,
sức chịu đựng tốt mà còn trở thành sinh thể sống, đang chịu những đau đớn về thể xác
nhưng bất khuất, kiên cường, gan dạ, bản lĩnh, ẩn tàng một sức sống bất diệt, một tâm
hồn giàu chất thơ. Hai cảm hứng: đau thương và bất tử đan xen nhưng âm hưởng chủ
đạo là bài ca bất tận về sự sống.
- Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn
văn giống như một đoạn thơ trữ tình. Bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp lãng
mạn, xây dựng rừng xà nu thành biểu tượng nghệ thuật độc đáo, là “linh mộc” của
người Tây Nguyên, mang tinh thần, sức mạnh, vẻ đẹp Tây Nguyên.
- Tả con người trong quan hệ liên tưởng so sánh với xà nu: cụ Mết ngực căng như một
cây xà nu lớn (rừng xà nu uỡn tấm ngực lớn), Tnú bị chém ngang lưng, vết thương tím
thẫm như nhựa xà nu (những vết thương đen, đặc quyện thành cục máu lớn). Các thế
hệ xà nu nối tiếp nhau - gợi sự liên tưởng các thế hệ dân làng Xô Man chống giặc bất
khuất. Sự chuyển hoá nhuần nhuyễn giữa hình tượng thiên nhiên và con người, hướng
về tư tưởng nghệ thuật chủ đạo: sự vùng lên và sức sống bất diệt của con người Tây
Nguyên trong đau thương.
1.6. Kết luận: Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng
của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ.
- Được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn.

5
Thuvientoan.net
- Kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Qua hình tượng cây xà nu, người
đọc hiểu biết thêm cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên và nhất là thêm yêu quí, tự
hào về những phẩm chất cao đẹp của họ.
Nhan đề mang tính hình tượng, vừa hiện thực, cụ thể (sức sống bất diệt của cây); vừa
biểu tượng, khái quát (tinh thần bất khuất của người), thâu tóm được chủ đề tác phẩm
(sức sống của dân tộc) và làm nên sức hấp dẫn riêng (không khí Tây Nguyên) của tác
phẩm.
2. Hình tượng những con người Tây Nguyên tiêu biểu: cụ Mết, Tnú, Mai, Dít...
2.1. Cụ Mết: Từ một nhân vật có thật ngoài đời, cụ Mết bước vào văn học như một
nhân vật trong thần thoại mà vô cùng sống động.
2.1.1. Vị trí của nhân vật: một nhân vật rất lạ. Ông chính là linh hồn của làng Xô
Man, cũng là linh hồn của truyện ngắn, nhân vật làm nên bản sắc Tây Nguyên đậm đà
nhất trên trang viết, là nhân vật tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần của Tây
Nguyên.
2.1.2. Ngoại hình, diện mạo: Sau ba năm “đi lực lượng”, Tnú trở về thăm làng, được
gặp lại cụ Mết. Anh thấy ông cụ “vẫn quắc thước như xưa”, dù râu đã dài tới ngực
nhưng vẫn đen bóng”, mắt “sáng” và “xếch ngược”. Ông ở trần, “ngực căng như một
cây xà nu lớn” còn tiếng nói thì “nặng trịch”, "ồ ồ dội vang trong lồng ngực” tưởng
như tiếng vọng của núi rừng. Bàn tay nặng trịch nắm chặt vai anh như cái kìm sắt.
Không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” Lúc ông nói, mọi người đều im bặt, nói như ra lệnh…
Bằng vài nét phác thảo về ngoại hình, diện mạo có phần ước lệ, cụ Mết hiện lên vững
vàng, mạnh mẽ, tráng kiện tựa như một cây xà nu cổ thụ trong đại ngàn Tây Nguyên.
2.1.3. Tính cách
Không chỉ khoẻ khoắn về mặt thể chất, cụ Mết còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc
cho dân làng Xô Man những ngày chống Mĩ.
- Yêu nước, yêu làng, tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng.
+ Là người anh hùng từ thời chống Pháp, cuộc đời Cụ đã trải qua nhiều thăng trầm,
chứng kiến những đổi thay của đất trời Tây Nguyên, mang hình ảnh một xà nu cổ thụ…
yêu làng, luôn tự hào về làng: gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng, bụng nó
sạch như nước suối làng ta, năm nay làng không đói, không có gì mạnh bằng cây xà
nu đất ta...
+ Linh hồn của cuộc chiến đấu là anh Quyết, nhưng cụ là người tổ chức, điều khiển,
cổ động, truyền cho con cháu niềm tin vào Đảng, vào cách mạng: “Cán bộ là Đảng,
Đảng còn núi nước này còn”, tiếp thêm sức mạnh cho dân làng tin vào sức sống bất
diệt của con người như tin vào sự bất diệt của rừng xà nu “Không có cây gì mạnh bằng
cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố nó giết hết rừng xà nu này”