ĐẶT VẤN ĐỀ
Loét tì đè là một vấn đề sức khỏe lớn ở các bệnh viện, cơ sở y tế ngay cả
trong chăm sóc bệnh nhân nhà. Đây hậu quả của quá trình bị đè kéo dài gây
thiếu máu nuôi tổ chức và chết tế bào, thường xảy ra những bệnh nhân phải nằm
lâu do các bệnh mãn tính khác[4].
Theo Barratt (1990), khối lượng công việc của điều dưỡng Hồi sức cấp cứu
tăng lên 50% khi loét tì đè cuất hiện [11]. Nghiên cứu của Woodbury và
Houghton năm 2004 trên 14000 bệnh nhân 45 cơ sở y tế tại Canada cho tỷ lệ
mắc ước tính của loét tì đè 26,2%. Tỷ lệ hiện mắc các đơn vị Hồi sức cấp cứu
thay đổi từ 14%-41%, cao n gấp 3 lần so với tỷ lệ các bệnh viện đa khoa
thông thường [15]. Các dữ liệu cũng cho thấy 10% bệnh nhân đến viện xuất hiện
loét tì đè trong đó 70% là người cao tuổi. Theo Langemo cộng sự (1989) 60%
bệnh nhân vào cấp cứu biểu hiện hai tuần đầu tiên, tuy nhiên 15% bệnh nhân
cao tuổi xuất hiện loét tì đè tuần đầu tiên [14]. Nguy cơ loét tì đè tăng đến 74%
khi kết hợp các yếu tố bất động, suy giảm hệ miễn dịch và giảm khối (Harris &
Fraser, 2004) [12].
Thời gian nằm viện, chi phí chăm sóc y tế, chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân giảm, tăng tỷ lệ bệnh tật thậm chí tử vong những hệ quả tất yếu của
loét đè. Nếu đã mắc thì rất khó điều trị, chính thế vấn đề dự phòng chăm sóc
loét đè đang dần trở thành một ưu tiên cho công tác chăm sóc điều dưỡng. [11],
[4], [10], [6], [14] Thêm vào đó, nguyên nhân hay gặp nhất chính thiếu vận
động, điều điều dưỡng y người chăm sóc bệnh nhân hoàn toàn thể dự
phòng [11]. Nguyễn Thế Bình cộng sự nghiên cứu trên 51 bệnh nhân chấn
thương cột sống ngực thắt lưng bệnh viện Việt Đức cho thấy tỷ lệ loét 3l,5 %
ở bệnh nhân có liệt tủy [9].
Với sự phát triển không ngừng vkinh tế hội, số lượng người cao tuổi
1
ngày một tăng cùng với sự gia tăng tỷ lệ các bệnh mãn tính (đái tháo đường, tim
mạch, bệnh khớp, …), các tai nạn lao động sinh hoạt khiến người bệnh hạn chế
vận động thì loét đè không phải một hiện tượng hiếm gặp. Mặc nhiều
tiến bộ trong việc chăm sóc bệnh nhân nguy cơ cao nhưng điều trị loét tì đè vẫn
vấn đề thách thức với y học. Chính vậy, chúng tôi viết chuyên đề “Dự phòng
chăm sóc loét tì đè cho bệnh nhân nằm lâu” này với hai nội dung sau:
1) Mô tả các yếu tố nguy và bệnh sinh loét tì đè
2) tả quy trình điều ỡng dự phòng chăm sóc loét tì đè những
bệnh nhân nằm lâu
2
Thang Long University Library
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
Da hệ thống cơ quan lớn nhất trong thể. Da đặc tính dai bền để
bảo vệ các lớp dưới da chống lại không khí, nước, các chất lạ, vi khuẩn. Da
rất nhạy cảm với chấn thương và có những khả năng tự lành đặc biệt. Tuy nhiên
khả năng đàn hồi nhưng da không thể chịu được áp lực kéo dài, lực đè hoặc sự
chà xát quá mức [4].
1.1.Cấu tạo của da.
Da gồm 3 lớp: thượng bì, trung bì, hạ bì và các phần phụ của da [2].
3
Hình 1.1: Cấu tạo mô học da bình thường
1.1.1. Thượng bì(còn gọi là biểu bì, epidermis)
Trên các lát cắt mô học của da bình thường, ranh giới giữa thượng bì
trung không bằng phẳng lồi lõm do nhiều nhú của thượng bì như những
ngón tay ăn sâu vào trung bì. Những chỗ lồi lên của trung giữa các nhú thượng
bì gọi nhú trung bì.Thượng bì chia ra thành năm lớp: lớp đáy, lớp gai, lớp hạt,
lớp sáng và lớp sừng [2].
- Lớp đáy: Còn gọi lớp sinh sản. Gồm một hàng tế bào đứng trên màng đáy
thẳng góc với mặt da.Tế bào hình trụ hay vuông, ranh giới ít ràng, nhân hình
4
Thang Long University Library
bầu dục khá lớn, tế bào chất ưa kiềm. Nằm xen kẽ giữa hàng tế bào đáy những
tế bào sáng tua, đó hắc tố bào (mélanocyte). Trung bình khoảng 10 tế bào
đáy một tế bào mélanocyte (khoảng 1155 tế bào mélanocyte/mm2 da). Lớp tế
bào đáy nhiệm vụ sinh sản những tế bào mới thay thế những tế bào đã bị
phân hủy. Hắc tố bào có nhiệm vụ sản xuất ra melanin.
- Lớp gai: Đây lớp dày nhất của thượng bì, từ 5-12 hàng tế bào, các hàng
dưới thì tế bào lớn hình đa giác trục thẳng đứng, càng lên trên tế bào càng nhỏ
lại, hình thoi nằm song song với mặt da, tế bào chất ưa toan. Nối liền tế bào này
với tế bào kia bằng cầu nối liên bào làm cho lớp gai liên kết chặt chẽ với nhau.
- Lớp hạt: từ 2-4 lớp, tế bào dẹt n tế bào gai, nằm song song với mặt da,
nhân sáng hơn hiện tượng đang biến. Lớp hạt lớp cuối cùng còn nhân
và cầu nối. Lớp hạt không có ở niêm mạc.
- Lớp sáng: Chỉ lòng bàn tay, bàn chân, nằm trên lớp hạt, từ 2-3 hàng
tế bào. Tế bào hình dẹt kéo dài chứa albumin có chất éléidin.
- Lớp sừng: Là lớp ngoài cùng của thượng bì, tiếp xúc trực tiếp với môi trường,
gồm những tế bào dẹt không nhân ưa toan (acid), xếp thành những phiến mỏng
chồng lên nhau.
Như vậy thượng luôn tình trạng sinh sản, những tế bào mới lớp cơ bản, già
cỗi, hư biến rồi bong ra ở lớp sừng.
1.1.2. Trung bì (còn gọi là chân bì)
Về cấu trúc trung bì gồm 3 phần:
- Những sợi chống đỡ: sợi tạo keo là những sợi thẳng không phân nhánh cấu tạo
bởi những chuổi polypeptit (khoảng 20 sợi axit amin). Sợi tạo keo thể bị phá
hủy bởi men Colagenaza do vi khuẩn tiết ra. Sợi chun những sợi lớn hơn
phân nhánh, bắt nguồn từ sợi tạo keo. Sợi lưới tạo thành màng lưới mỏng bao
5