Chuyên đề văn học

"Tuyên ngôn độc lập" & "Đây thôn Vĩ Dạ"

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành

một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh

thần và lực lượng, tính mạng và của cải, để giữ vững quyền tự do, độc

lập ấy".

"Tuyên ngôn Độc lập" đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong

cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ

cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: "Viết nhằm mục đích gì?

Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết như thế nào?". Đối tượng của

"Tuyên ngôn Độc lập" không chỉ là nhân dân Việt Nam mà còn là để nói

với thế giới, đặc biệt là để nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưu

tái chiến Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối

tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta.

Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản "Tuyên ngôn Độc

lập" là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội,

một mũi tên mà bắn trúng hai đích: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn

trường học". Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân

Pháp.

Lối viết ngắn gọn, hàm súc, đầy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu

bật một cục diện chính trị: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái

vị". Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác, gợi cảm. Văn chính luận,

bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng, có lúc xuất hiện

những hình ảnh cực kì xúc động: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của

ta trong những bể máu". Cách dùng từ ngữ, nhất là động từ, trạng ngữ

vừa chính xác vừa đanh thép: "thẳng tay chém giết...", "thoát li hẳn...",

"xóa bỏ hết...", "xóa bỏ tất cả...". Văn phong của Bác rất nhuần nhị,

uyển chuyển trong cách sử dụng điệp từ điệp ngữ, cấu trúc cân xứng,

trùng điệp, tăng cấp... tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy

ấn tượng:

"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,

một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm

nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".

Hồ Chí Minh đã viết "Tuyên ngôn Độc lập" vào hạ tuần tháng Tám năm

1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, ngay sau ngày Người

từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26-8-1945). Hồ Chí Minh đã có lần

nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo "Tuyên

ngôn Độc lập" là "những giờ phút sảng khoái nhất" của Người.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã kế thừa và phát triển bài thơ "Thần" của

Lý Thường Kiệt, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Nó là bản anh

hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nó nói lên khát vọng độc lập, tự do

của dân tộc Việt Nam anh hùng. Với giá trị lịch sử to lớn, với lập luận

chặt chẽ, sắc bén đanh thép, hùng hồn, bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một

nét chói lọi góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam. Trong cuốn

hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên", Đại tướng Võ Nguyên

Giáp có viết:

"Bản án chế độ thực dân Pháp" đã có từ 30 năm trước đây. Nhưng hôm

nay mới chính là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt

Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỉ nguyên mới bắt

đầu: Kỉ nguyên Độc lập, Tự do, Hạnh phúc... Cả dân tộc đã hồi sinh.

Vô vàn khó khăn còn ở phía trước mắt. Nhưng đối với bọn đế quốc,

muốn phục hồi lại thiên đàng đã mất, mọi việc cũng không còn dễ dàng

như xưa".

"Tuyên ngôn Độc lập" là thành quả chiến đấu trong suốt 80 năm của

nhân dân ta, là sự kết tinh bằng máu của hàng triệu con người Việt Nam:

"Tự do đã nở hoa hồng,

Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam".

(Tố Hữu)

Bài làm (Câu 2)

Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Con gái Huế xinh tươi và đa tình.

Nếp sống thanh lịch của miền núi Ngự sông Hương đã trở thành ấn

tượng và cảm mến sâu sắc đối với bao người gần xa:

"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ

Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt..."

Thơ ca viết về Huế có nhiều bài hay. Tiêu biểu là bài thơ "Đây thôn Vĩ

Dạ" của Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), nhà thơ lỗi lạc trong phong trào

"Thơ mới". Bài thơ có 3 khổ thơ thất ngôn nói về cảnh sắc và cô gái Vĩ

Dạ trong hoài niệm với bao cảm xúc bâng khuâng, man mác, thẫn thờ.

Vĩ Dạ, một làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang thuộc cố đô Huế,

qua hồn thơ Hàn Mặc Tử mà trở nên gần gũi yêu thương đối với nhiều

người hơn 60 năm qua. Đây là khổ thư thứ hai của bài "Đây thôn Vĩ

Dạ".

"Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?"

1. Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi "nắng mới lên"... Ở khổ

thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao

la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió,

nhưng "gió theo lối gió". Cũng có mây, nhưng "mây đường mây". Mây

gió đôi đường, đôi ngả:

"Gió theo lối gió / mây đường mây".

Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi tả một không gian gió, mây

chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ "gió" và "mây" được

điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng

đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và

xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng

người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.

Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có

"Dòng nước buồn thiu, hoa bắp tay". Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm.

Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hoá

thành "dòng nước buồn thiu", càng thêm mơ hồ, xa vắng. "Buồn thiu" là

buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu

mãi vào hồn người. Hai tiếng "buồn thiu" là cách nói của bà con xứ Huế.

Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy "hoa bắp lay". Chữ "lay"

gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của

đồng nội cũng mang tình người và hồn người.

Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã

hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn

Mặc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì

chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa

vắng, cô đơn.

2. Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng

trên Hương Giang ngày nào. "Dòng nước buồn thiu" đã biến hoá kì diệu

thành "sông trăng" thơ mộng:

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?".

Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca,

kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài

tình. Chữ "đó" cuối câu 3 bắt vần với chữ "có" đầu câu 4, âm điệu vần

thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm "có chở trăng về kịp tối nay?".

"Thuyền ai" phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như

quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi

"sông trăng" là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Đã có "Thuyền ai đậu

bến Cô Tô" hiện lên trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ

Trương Kế đời Đường. Đã có "Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng"

trong "Xuân giang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược Hư, 1300 năm về

trước. Lại có cảnh "Gió trăng chứa một thuyền đầy" (Nguyễn Công

Trứ). Còn có "Trăng sông Trà như tấm gương soi dòng nước bạc" (Cao

Bá Quát). Qua đó, ta thấy hình tượng "sông trăng" là mới mẻ, sáng tạo.

Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng

tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người

(vì người xa cách chia li) mà chỉ "chở trăng về". Phải "về kịp tối nay" vì

đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước

vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì

"thuyền ai" chỉ là con thuyền mồ côi.

Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một

cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm

trạng cô đơn, thương nhớ đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã

biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế, từng có một mối tình

đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên một loài hoa. Với chàng

thi sĩ tài hoa, đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật,

nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh "gió theo lối gió, mây đường

mây", cảnh "thuyền ai đậu bến sông trăng đó" là cảnh đẹp mà buồn.

Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.

Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình

thương nhớ và một nỗi "buồn thiu" lẻ loi. Vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc

sắc. Thơ Hàn Mặc Tử, đúng là thơ trữ tình hướng nội "tình trong cảnh

ấy, cảnh trong tình này"..