
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
225
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP CPTPP
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAMESE ENTERPRISES IN
JOINING CPTPP
Nguyễn Thị Hường
Khoa Kinh tế - Du lịch. Trường Đại học Kiên Giang
TÓM TẮT
Hiệp định đối tác tiến bộ và toàn diện kinh tế chiến lược xuyên thái bình dương (CPTPP) được coi là hình
mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực. CPTPP được đánh giá là hiệp định của thế kỷ XXI. CPTPP không chỉ đề
cập đến các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại
điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…Hiệp định này sẽ mở ra rất nhiều
cơ hội cũng như thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bài viết này đưa ra một số cơ hội cũng như
thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm để có thể tận dụng được các cơ hội và né tránh
những thách thức khi CPTPP có hiệu lực.
Từ khóa: CPTPP, Doanh nghiệp, cơ hội, thách thức.
ABSTRACT
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) is regarded as a model
for regional economic cooperation. The TPP Agreement is considered as the “21st century trade
agreement”. The CPTPP is not only refers to the traditional areas such as goods , services and investment
but also current issues such as commercial electronic, facilitating the supply chain , state-owned enterprises
... This agreement opens a lot of opportunities as well as challenges for Vietnam enterprises . This article
provides a number of opportunities and challenges that Vietnam now can relate to utilize the opportunities
and challenges while dodging CPTPP effect.
Keywords: CPTPP, enterprises, opportunities, challenges.
1. Đặt vấn đề
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tiền thân là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) được khởi động từ năm 2005 và đến nay có 11 nước tham. Hiệp định CPTPP
đã được ký kết tại thành phố Santiago (Chile) vào ngày 08/03/2018. Đây là nỗ lực của 11 nền kinh tế do
Nhật Bản đề xuất khởi động lại một TPP “mới” sau sự rút lui của Mỹ. So với “TPP không Mỹ”, CPTPP
không đơn thuần chỉ là sự thay đổi tên gọi, hay sự khác biệt về số nước tham gia. Với “diện mạo” mới là
“toàn diện” và “tiến bộ”, CPTPP minh chứng cho sự nỗ lực, quyết tâm “hồi sinh” TPP của 11 nước thành
viên. Ðiểm mới và tích cực nhất của Hiệp định này chính là sự thống nhất tuyệt đối của các thành viên về
nhu cầu duy trì một hiệp định chất lượng cao và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, chứ không chỉ là vấn đề
mở cửa thị trường, thương mại và kinh tế.
CPTPP không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở
cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại…, mà còn xử lý những
vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà
nước…Đồng thời, CPTPP nhấn mạnh tính toàn diện và tiến bộ của phiên bản mới khi bảo đảm các lợi ích,
không chỉ thương mại, của tất cả các bên tham gia, bảo toàn các quyền kiểm soát, tính linh hoạt khi đặt ra

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
226
các ưu tiên về mặt pháp lý và quản lý, cũng như bảo đảm quyền bảo vệ, phát triển và thực thi các chính sách
văn hóa riêng của từng thành viên. Điều đó thể hiện sự gắn kết của mối quan hệ đa quốc gia như thế này
không có bất kỳ trở ngại địa lý nào. CPTPP cũng được quy định có hiệu lực ngay sau khi có 6 quốc gia thành
viên đầu tiên phê chuẩn. Sự thay đổi này được giới quan sát đánh giá là “tích cực” so với quy định về hiệu
lực của TPP, khi đòi hỏi giá trị GDP của các quốc gia phê chuẩn phải đạt mức 85% tổng GDP của 12 thành
viên (Vy Hương, 2018).
Về mở cửa thị trường, các nước tham gia Hiệp định thống nhất xóa bỏ cho nhau gần như toàn bộ thuế
nhập khẩu theo lộ trình; Tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm
sự quản lý của Nhà nước. Theo đó, CPTPP vừa tạo sự gắn kết giữa các quốc gia vừa bảo đảm lợi ích của tất
cả các bên, bảo đảm quyền bảo vệ, phát triển và thực thi các chính sách văn hóa riêng của từng thành viên.
Với sự rút lui của Mỹ, quy mô thị trường của CPTPP bị thu hẹp đáng kể, từ chỗ chiếm 40% xuống còn
13,5% GDP toàn cầu so với TPP. Dù vậy, giới chuyên gia cho rằng, đây vẫn là hiệp định hết sức quan trọng,
mở ra thị trường rộng lớn với tổng dân số 500 triệu người. CPTPP về cơ bản kế thừa toàn bộ nội dung của
Hiệp định TPP nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn khoảng 20 nghĩa vụ so với TPP để bảo đảm sự
cân bằng trong bối cảnh mới. Trong đó, có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia
đề xuất trước đây. Trong số các nghĩa vụ được tạm hoãn, các nước đồng ý để Việt Nam miễn thực thi một số
cam kết liên quan đến sở hữu trí tuệ, đầu tư, mua sắm của Chính phủ, dịch vụ tài chính, viễn thông... Hiệp
định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp
có tính ràng buộc và chặt chẽ. Đối với cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS),
CPTPP đã thu hẹp phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện Chính phủ nước
thành viên sở tại (nước tiếp nhận đầu tư). Theo đó, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ
không được phép sử dụng cơ chế ISDS nếu xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai bên. Các công ty trong
nước cũng không được sử dụng cơ chế ISDS để kiện Chính phủ nước đó, nhưng có thể sử dụng để khởi kiện
Chính phủ một nước thành viên khác trong khối. Ngoài ra, về việc thành lập Ban trọng tài của ISDS, CPTPP
quy định Ban trọng tài có ba thành viên, bao gồm một đại diện do Chính phủ cử ra, một đại diện do nguyên
đơn lựa chọn và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ và nguyên đơn cùng thống nhất lựa chọn. Hiệp
định còn bổ sung các quy định về quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai, tạo tính linh
hoạt của Hiệp định và có thể sẵn sàng cho những đợt kết nạp thành viên mới (Trần Trang, 2018).
Hiệp định CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu và bao trùm thị trường gần 500 triệu người với tổng
kim ngạch thương mại vượt 10.000 tỷ USD. Dù không có quy mô bằng Hiệp định TPP cũ, nhưng Hiệp định
này cũng giúp nhiều nước tiếp cận được với các thị trường thương mại tự do mới. Đối với cam kết mở cửa
thị trường, các nước tham gia Hiệp định đồng ý xóa bỏ cho nhau gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ
trình; tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà
nước. Từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp và lợi ích mới cho người tiêu dùng của các nước
thành viên. Với việc tham gia CPTPP, GDP Việt Nam dự báo sẽ tăng thêm 1,3% và kim ngạch xuất khẩu
cũng tăng thêm 4%. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế xâm nhập và tiếp cận sâu vào các thị
trường bên kia Thái Bình Dương gồm Canada, Mexico và Peru. Đây là những thị trường mà Việt Nam chưa
ký hiệp định thương mại. Hiệp định CPTPP (Văn Thọ, 2018).
Tập đoàn truyền thông Edelman đã thực hiện khảo sát khảo sát 1.000 doanh nghiệp và 1.000 người
tiêu dùng thuộc các quốc gia tham gia TPP (trừ Brunei và Peru) nay là CTPPP, để tìm hiểu nhận thức và
quan điểm xung quanh TPP. Theo đó, nếu như mức độ ủng hộ TPP của doanh nghiệp là 69% và của người
tiêu dùng là 67% trên toàn cầu thì Việt Nam lại là quốc gia có tỷ lệ cao nhất khi con số này lần lượt là 93%
và 96%. Như vậy hầu hết doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng trong nước đều cho rằng TPP sẽ mang lại
lợi ích tích cực về mặt kinh tế. Bên cạnh đó có tới 83% doanh nghiệp và 86% người tiêu dùng nhận thức tích
cực về TPP, xếp thứ hai trong số các nước tham gia, với niềm tin rằng hiệp định này sẽ tạo ra bước ngoặt lớn
đối với nền kinh tế. Ngoài ra, mức độ chuẩn bị sẵn sàng để tận dụng lợi thế từ TPP của các doanh nghiệp
Việt Nam đang ở mức 76%, cao hơn hẳn so với toàn cầu là 52%. Ở khía cạnh khác, các doanh nghiệp trong
nước cũng tự tin về tác động tích cực của TPP trong vấn đề việc làm và lao động, chiếm tới 79% so với toàn

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
227
cầu là 53%. Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) cũng có cuộc điều tra gần 10.000 doanh
nghiệp, thực hiện năm 2014. Với TPP có tới 66% doanh nghiệp Việt Nam ủng hộ và tin vào những lợi ích
mà hiệp định này đem lại cho họ (trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp FDI khiêm tốn hơn, chưa tới 30%)
(Nguyễn Tuấn Quỳnh, 2015).
Đây là bước ngoặt lịch sử đối với các nước thành viên CPTPP, trong đó có Việt Nam. Điều đó cũng có
nghĩa CPTPP mở ra nhiều cơ hội lẫn thách thức với Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu được tiến hành tiếp cận theo hệ thống các nghiên cứu trước theo hướng tổng quát để hỗ
trợ phân tích các vấn đề liên quan đến cơ hội và thách thức cho các DN khi Việt Nam gia nhập hiệp định đối
tác tiến bộ và toàn diện kinh tế chiến lược xuyên thái bình dương (CPTPP).
2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp được tổng hợp từ các trang tin điện tử; các báo tạp chí; các nghiên cứu
trước và từ báo cáo cục hải quan liên quan đến cơ hội và thách thức cho các DN Việt Nam trong điều kiện
gia nhập hiệp định CPTPP.
2.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích cây vấn đề được sử dụng để phân tích các cơ hội và thách thức cho các DN
Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng nhiều trong vấn đề lập nhánh về nguyên nhân và kết quả xung
quanh một vấn đề. Vấn đề có thể được chia thành các khối liên quan để phân tích để từ đó xác định rõ hơn
các yếu tố và mục tiêu. Với nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích cây vấn đề để đi phân
tích, nhận định và chỉ ra những cơ hội và thách thức mà các DN Việt Nam sẽ đối mặt khi hiệp định CPTPP
có hiệu lực.
3. Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện gia nhập CPTPP
3.1. Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
CPTPP được coi là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu thế kỷ 21 đề cập
không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương
mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…Với các kết quả đàm phán đã
đạt được, CPTPP sẽ là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao trên cơ sở cân bằng lợi ích và lưu ý tới trình
độ phát triển khác nhau giữa các nước tham gia Hiệp định, đồng thời kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
tại tất cả các nước CPTPP; tạo việc làm, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân, thúc đẩy sáng
tạo, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh, thúc đẩy minh bạch hàng hóa, quản trị tốt, đồng thời
củng cố các tiêu chuẩn về lao động và môi trường.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, cũng như TPP, CPTPP được coi là một FTA
(Free trade agreement – Hiệp định thương mại tự do) tiêu chuẩn cao, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực
truyền thống như: cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào
kỹ thuật liên quan đến thương mại... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi
trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước (Linh Giang, 2019).
CPTPP sẽ có tác động lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) trong
nước trong tương lai gần. Công cụ lớn nhất mà CPTPP sử dụng để thúc đẩy trao đổi hàng hóa là những ưu
đãi miễn giảm thuế mà các nước cam kết sẽ dành cho nhau. Bằng cách dỡ bỏ hoặc cắt giảm 18.000 hàng rào
thuế quan đối với các sản phẩm công nghiệp cũng như nông nghiệp, CPTPP sẽ giúp các DN Việt Nam tiếp
cận rộng hơn với các thị trường lớn, đặc biệt là Nhật Bản. Theo Bộ Tài chính, các nước tham gia CPTPP xóa
bỏ thuế nhập khẩu cho hàng hóa của của các thành viên. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản cũng cam kết xóa bỏ

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
228
thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế, chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản,
tương đương 10,5 tỷ USD (dựa trên số liệu kim ngạch thương mại năm 2014). Từ đó, sẽ đẩy mạnh xuất khẩu
một số nhóm sản phẩm lớn mà DN Việt Nam có lợi thế so sánh như dệt may và may mặc, thủy hải sản, nông
sản và lâm sản. Nói một cách khác, lợi thế này không chỉ nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn thấy ở cả
tiềm năng trong tương lai.
Trong CPTPP, các nước thành viên đã xóa gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình, tự do hóa
dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Điều này
sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho DN và lợi ích người tiêu dùng của các nước thành viên. Theo nhận định
của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, CPTPP sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu cũng như thay
đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn. Khi dòng thuế suất bằng 0%, CPTPP sẽ giúp
ngành Dệt may Việt Nam mở rộng thị phần tại một số nước đang có thuế suất cao như: Canada, Newzeland,
Australia… Cũng như dệt may, CPTPP là cơ hội để các DN xuất khẩu da giày tăng tỷ trọng, tăng cơ hội xuất
khẩu sang các thị trường tiềm năng mà Việt Nam chưa có hiệp định thương mại như: Mexico, Canada,
Peru… Riêng Nhật Bản - một trong những thị trường chủ lực của ngành xuất khẩu da giày, túi xách Việt
Nam với mức tăng trưởng trung bình 20-35%/năm, nếu DN biết tận dụng chặt chẽ các điều khoản từ CPTPP,
mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn hiện tại. Hơn nữa, Hiệp định CPTPP sau khi được thông qua sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho cộng đồng DN Việt Nam. Với việc giảm thuế sang các quốc gia nhập khẩu, các DN sẽ có
thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung cấp các sản phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên. Việc giảm
thuế nhập khẩu cho sản phẩm vào Việt Nam cũng sẽ giúp cho DN có thêm đối tác mới, đa dạng hóa các
chủng loại hàng hóa, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Hiệp định sẽ tạo ra một sân
chơi công bằng, minh bạch và là cơ sở, nền tảng để cho các DN có định hướng phát triển bền vững; nâng cao
năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ, khả năng sản xuất của nền kinh tế để bắt kịp xu
hướng phát triển của thế giới, từ đó tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu (Nguyễn Mạnh
Hùng, 2019).
Các nước CPTPP cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97% đến 100% số dòng thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của từng nước. Gần như toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam vào các nước CPTPP khác sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực
hoặc theo lộ trình. Một số cam kết thuế nhập khẩu của các đối tác CPTPP như sau: Canada cam kết xoá bỏ
thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế và 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Canada ngay khi
hiệp định có hiệu lực. Trong đó, 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản và 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được
xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực. Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu
lực đối với 86% số dòng thuế (tương đương 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản), và
gần 90% số dòng thuế sau 5 năm. Trong Hiệp định CPTPP, Nhật Bản lần đầu tiên cam kết xóa bỏ hoàn toàn
thuế nhập khẩu cho đại đa số nông, thủy sản xuất khẩu của ta. Perucam kết xóa bỏ 80,7% số dòng thuế ngay
khi hiệp định có hiệu lực, tương đương 62,1% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối
với 99,4% số dòng thuế vào năm thứ 17 kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Mehico cam kết xóa bỏ 77,2% số
dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 36,5% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa
bỏ thuế quan đối với 98% số dòng thuế vào năm thứ 10 kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Chi lê cam kết xóa
bỏ 95,1% số dòng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực, tương đương 60,2% kim ngạch nhập khẩu từ Việt
Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,9% số dòng thuế vào năm thứ 8 kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
Australia cam kết cắt giảm 93% số dòng thuế, tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường này (khoảng 2,9 tỷ USD) ngay khi thực hiện hiệp định. Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế
với lộ trình cắt giảm cuối cùng tối đa vào năm thứ 4. Neuseelandcam kết xóa bỏ 94,6% số dòng thuế ngay
khi hiệp định có hiệu lực, tương đương 69% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (khoảng
101 triệu USD). Vào năm thứ 7 kể từ khi thực hiện hiệp định, các dòng thuế còn lại sẽ dần được xóa bỏ hoàn
toàn. Singaporecam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay khi thực hiện hiệp định.
Malaysiacam kết xóa bỏ 84,7% số dòng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ dần có lộ trình đối với
các dòng thuế còn lại. Vào năm thứ 11, số dòng thuế cam kết cắt giảm của Malaysia lên tới 99,9%. Brunei

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
229
cam kết xóa bỏ 92% số dòng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam (tương đương 7.639 dòng) ngay
khi hiệp định có hiệu lực, xóa bỏ tới 99,9% vào năm thứ 7 và xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu vào năm thứ
11 (doanh nghiep.vn, 2019).
Việt Nam sẽ có thị trường rộng hơn; GDP có thể tăng thêm 8 đến 10% đến năm 2030, thậm chí còn
nhiều hơn. Đây là cú hích lớn cho Việt Nam nhưng cũng đem lại áp lực cho nhà sản xuất trong nước. Họ
phải cạnh tranh quyết liệt hơn, nhưng điều này sẽ thúc đẩy năng suất lao động; rất tốt cho Việt Nam trong
tăng trưởng dài hạn. Nguyên tắc chung của CPTPP là đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với tất cả dòng thuế.
Với một số ít dòng thuế nhạy cảm nhất, có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc hình thức giảm thuế đáng
kể, với điều kiện là phải được cả 10 nước còn lại chấp nhận. Điển hình là thị trường xuất khẩu sẽ có nhiều
thuận lợi hơn, khi nhiều thị trường lớn và quan trọng của Việt Nam như Canada, Nhật Bản... giảm thuế về
0%. Tuy nhiên, để thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, cả cơ quan quản lý nhà
nước và doanh nghiệp cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại với các đối tác tiềm năng, đảm bảo sự cạnh tranh
công bằng giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn,
chiếm 4-5% GDP và 6-7% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, đứng thứ 4 thế giới về xuất khẩu. Hiện nay,
thủy sản Việt Nam có mặt tại 165 thị trường và đặt mục tiêu đạt trên 7 tỷ USD trong năm 2016.
Theo VASEP, năm 2014 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang 10 nước thành viên
CPTPP đạt 3,81 tỷ USD, tăng 13,14% so với năm 2013, chiếm gần 49% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn
ngành thủy sản của Việt Nam. Trong đó, thị trường Nhật Bản chiếm 31,77%, Canada chiếm 7,03%, Australia
chiếm 6,27%, Singapore chiếm 2,86%, Mexico chiếm 3,28%, Malaysia chiếm 1,86%, New Zealand chiếm
0,59%, Chile chiếm 0,34%, Peru chiếm 0,2% và cuối cùng Brunei chiếm 0,04% tổng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản (XKTS) của Việt Nam vào 10 nước thành viên CPTPP. Như vậy nếu có là thành viên chính thức
của CPTPP xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có tăng trưởng mạnh hay không còn phụ thuộc rất lớn đến việc
tận dụng những cơ hội và tránh tối đa các thách thức khi tham gia vào khối CPTPP.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
trong năm 2018 đạt 1,72 tỷ USD, tăng mạnh 19,6% so với năm 2017. Nhật Bản với trị giá nhập khẩu thủy
sản là 108 triệu USD, tăng 29,3% so với năm trước đó. Đáng chú ý, nhập khẩu thủy sản từ Malaysia có mức
tăng trưởng cao nhất trong năm 2018 với 94,6%, trị giá 7,6 triệu USD. Tăng mạnh thứ hai là Canada với mức
tăng gần 70% so với năm 2017, đạt 42,4 triệu USD (Duyên Duyên, 2019).
Nếu thuế xuất nhập khẩu về 0% sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam nhập khẩu chế biến rồi tái xuất ra thị trường các nước thành viên CPTPP và các thị
trường khác không phải là thành viên CPTPP, đặc biệt là thị trường EU. Tuy nhiên, việc tạm nhập tái xuất
chỉ được hưởng thuế suất 0% khi nhập nguyên liệu từ các nước thành viên CTTPP và phải chứng minh được
nguồn gốc nhập từ các nước thành viên CPTPP, trong khi đó 83% nguyên liệu thủy sản còn lại của Việt Nam
chủ yếu được nhập từ các nước không phải là thành viên CPTPP vì vậy cơ hội cũng không phải nhiều, vì nếu
nhập từ các nước không phải là thành viên CPTPP sau đó chế biến rồi tái xuất sang thị trường các nước
thành viên CPTPP vẫn phải chịu thuế suất theo qui định.
Cơ hội đối xuất nhập khẩu thủy sản Việt Nam có được từ việc cắt giảm thuế quan khi xuất khẩu thủy
sản sang các nước thành viên CPTPP nhờ được giảm ngay 90% các loại thuế xuất nhập khẩu hàng hóa và cắt
giảm bằng 0% từ năm 2015. Đây sẽ là cơ hội rất tốt cho ngành thủy sản của Việt Nam phát triển trong thời
gian tới nếu biết tận dụng tối đa các cơ hội và tránh tối đa các thách thức khi tham gia vào CTTPP; nhờ thuế
suất 0% các doanh nghiệp chế biến thủy sản trong nước tận dụng được tối đa công suất dư thừa nhờ nhập
khẩu nguyên liệu thủy sản từ các nước thành viên CPTPP, sau đó chế biến và tái xuất sang thị trường các
nước thành viên CPTPP và thị trường các nước không phải là thành viên CPTPP, đặc biệt là thị trường EU,
và cần phải chú ý rằng chỉ có nguyên liệu nhập từ các nước thành viên CPTPP mới được hưởng thuế suất
0%, còn lại nhập từ các nước không phải thành viên CPTPP vẫn phải chịu thuế suất theo qui định. Bên cạnh
đó cũng có những khó khăn như khi càng hội nhập sâu và rộng đi kèm theo luôn là các rảo cản kỹ thuật
thương mại (Technical Barriers to Trade-TBT) và biện pháp vệ sinh dịch tế (Sanitary and Phytosanitary