z

LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận của việc phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp

Phần I : khái quát hoá cơ sở lý luận của việc phân tích hoạt động tài chính

của doanh nghiệp

I, Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp

1./ Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp

Phân tích tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh về

số liệu tài chính hiện hành với các số liệu được chọn trước(Tuỳ theo yêu cầu và

phương pháp phân tích). Thông qua việc phân tích tài chính doanh nghiệp người

sử dụng thông tin có thể đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp trong

giai đoạn hiện tại và quá khứ cũng như dự báo được tiềm năng, hiệu quả kinh

doanh cũng như rủi ro trong tương lai.

2./ Sự cần thiết của việc phân tích tài chính doanh nghiệp

Mục đích tối cao và quan trọng nhất của phân tích tài chính doanh nghiệp là

giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá

chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân

tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều phía (chủ doanh

nghiệp và bên ngoài).

Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan

tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, các

quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như tạo công ăn việc

làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp, đóng

góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có thể

thực hiện được mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn và là hai

mục tiêu cơ bản: Kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ

liên tục, rút cuộc sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác,

nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải

ngừng hoạt động và đóng cửa. Như vậy, hơn ai hết, các nhà quản trị doanh nghiệp

cần có đủ thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính đã

qua, thực hiện cân bằng tài chính khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán

tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng.

Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm

của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đặc biệt

chú ý đến số lượng tiền và tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh. Từ đó,

so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh

nghiệp. Ngoài ra, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan

tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu. Bởi vì, số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo

hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng

cho vay nếu các thông tin đó cho thấy người vay không đảm bảo chắc chắn rằng

các khoản vay đó có thể và sẽ được thanh toán khi đến hạn. Người cho vay cũng

quan tâm đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp vì đó là cơ sở của việc hoàn trả

vốn và lãi vay dài hạn.

Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ, họ phải quyết

định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng, thanh toán chậm

hay không. Cũng như các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, nhóm người

này cũng cần phải biết được khả năng thanh toán hiện tại và thời gian sắp tới của

khách hàng.

Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự

rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn... Vì vậy, họ cần

những thông tin và điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và

tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng rất quan

tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những

điều đó nhằm bảo đảm sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư.

Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, (chủ sở hữu), các nhà quản lý, các nhà đầu

tư, các chủ ngân hàng... còn có nhiều nhóm người khác quan tâm đến thông tin tài

chính của doanh nghiệp. Đó là các cơ quan tài chính, thuế, thống kê, chủ quản, các

nhà phân tích tài chính, những người lao động ... Những nhóm người này có nhu

cầu thông tin về cơ bản giống các chủ ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh

nghiệp... bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại

và tương lai của họ.

3. Đối tượng nghiên cứu của việc phân tích tài chính doanh nghiệp .

Là những kết quả kinh doanh cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế thông

qua bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh .

4. Yêu cầu của việc phân tích tài chính doanh nghiệp

- Phải cung cấp được thông tin để đánh giá rủi ro từ hoạt động đầu tư và cho vay

của các nhà đầu tư .

- Phải cung cấp được thông tin về khả năng tạo tiền và tình hình sử dụng vốn

kinh doanh của doanh nghiệp .

- Phải làm sáng tỏ sự biến động của tài sản nguồn vốn và các nhân tố gây ra sự

biến động đó .

II. Nội dung và phương pháp phân tích hoạt động tài chính :

1. Phương pháp phân tích

1.1 Phương pháp so sánh

Là phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích để dánh giá xác định xu hướng

và biến động của chỉ tiêu phân tích . Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm

bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu (thống nhất về nội dung

phương pháp và thời gian đơn vị tính toán của chỉ tiêu so sánh) và tuỳ theo mục

đích phân tích để xác định gốc so sánh .

- So sánh về số tuyệt đối: là việc xác định số chênh lệch giữa giá trị của chỉ tiêu

kỳ phân tích với giá trị của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh cho thấy sự biến

động của hiện tượng kinh tế đang nghiên cứu.

- So sánh bằng số tương đối: là xác định số % tăng (giảm) giữa thực tế so với

kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích hoặc chiếm tỷ trọng của một hiện tượng kinh tế

trong tổng thể qui mô chung được xác định để đánh giá được tốc độ phát triển

hoặc kết cấu, mức phổ biến của hiện tượng kinh tế

- So sánh bằng số bình quân : Khi so sánh bằng số bình quân sẽ cho thấy mức độ

mà đơn vị đạt được so với bình quân chung của tổng thể ngàn

ví dụ : tiền lương bình quân, vốn kinh doanh bình quân ...

1.2 Phương pháp tỉ lệ :

Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ đại lượng tài chính trong

các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định các

ngưỡng (định mức)để nhận xét đánh giá tình hình tài chính trên cơ sở so sánh các

tỷ lệ của các doanh nghiệp đối với các tỷ lệ tham chiếu .

Như vậy để đưa ra nhận xét đánh giá chính xác , người phân tích không chỉ sử

dụng một phương pháp mà phải biết kết hợp hài hoà cả hai phương pháp nói trên,

nó cho phép người phân tích biết rõ thực chất hoạt động tài chính cũng như

phương pháp biến động của từng chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp qua các giai đoạn

khác nhau .

Khi dùng phương pháp so sánh để phân tích các báo cáo tài chính có thể sử

dụng phương pháp phân tích theo chiều dọc hoặc phân tích theo chiều ngang

- Phân tích theo chiều ngang là việc so sánh cả về số tuyệt đối và số tương đối

trên cùng một hàng (cùng một chỉ tiêu) trên các báo cáo tài chính. Qua đó thấy

được sự biến động của từng chỉ tiêu.

- Phân tích theo chiều dọc là xem xét, xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong

tổng thể qui mô chung. Qua đó thấy được mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu

trong tổng thể.

2. Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp

2.1 Tài liệu sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp :

Việc phân tích tình hình tài chính đòi hỏi sử dụng nhiều tài liệu và thông tin khác

nhau nhưng trong đó chủ yếu là báo cáo tài chính , báo cáo tài chính rất hữu ích

với việc quản trị doanh nghiệp đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối

với ngươì ngóài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính không những cho thấy tình hình

tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả

hoạt động mà doanh nghiệp đạt được. Việc phân tích báo cáo tài chính là tiến trình

chọn lọc tìm hiểu tương quan và thẩm định các dữ kiện trong báo cáo tài chính .

Hệ thống báo cáo tài chính gồm :

- Bảng cân đối kế toán

- Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh .

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ .

- Thuyết minh báo cáo tài chính .

Tuy nhiên do giới hạn của luận văn nên trong khuôn khổ luận văn này chỉ đề cập

đến bảng cân đối kế toán và kết quả sản xuất kinh doanh dùng cho việc phân tích

tài chính .

 Bảng cân đối kế toán: là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình

tài sản của doanh nghiệp theo hai cách phân loại cấu thành vốn và nguồn hình

thành vốn hiện có của doanh nghiệp ở các thời điểm nhất định dưới hình thaí

tiền tệ .

 Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh : là báo cáo tài chính tổng

hợp phản ánh khái quát tình hình và kết quả kinh doanh cũng như tình hình

thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước.

2.2 Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp

Bước 1: - Lập kế hoạch phân tích,

- xác định mục tiêu phân tích

- xây dựng chương trình phân tích.

Bước 2: Tiến hành phân tích bao gồm các công việc sau:

- Sưu tầm tài liệu, xử lý số liệu

- Tính toán xác định dự đoán .

- Tổng hợp kết quả rút ra nhận xét .

Bước 3- Viết báo cáo phân tích

- Hoàn chỉnh hồ sơ phân tích .

-

III, Nội dung phân tích báo cáo tài chính .

Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh trong qúa

trình kinh doanh được được biểu thái dưới dạng tiền tệ .

Việc tiến hành phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thông tin

nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ nguyên nhân và mức độ ảnh

hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính và tình hình kinh doanh. Trên cơ

sở đó, đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra quyết định cần thiết để nâng cao chất

lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh .

 Việc phân tích báo cáo tài chính gồm những nội dung chủ yếu sau :

- Phân tích bảng cân đối kế toán.

- Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

- Phân tích cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư

- Phân tích mức độ đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh

- Phân tích hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời

- Đánh giá doanh nghiệp.

1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp

Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp là việc xem xét nhận định về

tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay không khả quan.

Tỷ suất tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu

Tổng số nguồn vốn

Chỉ tiêu này càng cao, càng chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh

nghiệp bởi vì hầu hết tài sản doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng số vốn

của mình .

tỷ suất đầu tư = Tài sản cố định - đầu tư dài hạn

Tổng số tài sản

Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy

móc thiết bị noí riêng của doanh nghiệp , phản ánh năng lực sản xuất, xu hướng

phát triển và khả năng cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp .

Tỷ suất Nguồn vốn chủ sở hữu

tự tài trợ =

TSCĐ Giá trị tài sản cố định

Nếu tỷ suất này lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng tài chính vững mạnh. Khi tỷ suất này

nhỏ hơn 1 thì một bộ phận của TSCĐ dược tài trợ bằng vốn vay, đặc biệt mạo

hiểm khi đấy là vốn vay ngắn hạn .

Hệ số nợ : đây là một chỉ tiêu tài chính phản ánh trong một đồng vốn hiện nay

doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vốn vay nợ . Hệ số trên cho phép doanh

nghiệp nhìn nhận kết cấu tài chính của doanh nghiệp ở khía cạnh nhất định. Phân

tích hệ số nợ là vấn đề quan trọng đối với người quản lý doanh nghiệp cũng như

đối với các chủ nợ của doanh nghiệp.

Tổng số nợ

Hệ số nợ =

Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp

2. Phân tích bảng cân đối kế toán :

Để nắm được 1 cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng tài

sản của doanh nghiệp cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình hình

biến động của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán . Việc phân tích bảng

cân đối kế toán thường được tiến hành bằng 2 cách : phân tích dọc và phân tích

ngang .

 Khi phân tích bảng cân đối kế toán cần xem xét xác định và nghiên cứu các

vấn đề cơ bản sau :

- Xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản thông qua so

sánh giữa số cuối kỳ và số đầu năm kể cả về số tuyệt đối lẫn tương đối của

tổng số tài sản cũng như chi tiết đối với từng loại tài sản. Qua đó thấy được sự

biến động về qui mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.

- Xem xét tính hợp lý của cơ cấu vốn, cơ cấu vốn đó tác động như thế nào đến

quá trình kinh doanh: Muốn làm được điều này, trước hết phải xác định được

tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản. Sau đó, so sánh tỷ trọng từng

loại giữa cuối kỳ với đầu năm để thấy được sự biến động của cơ cấu vốn. Khi

phân tích cần lưu ý đến tính chất của từng loại tài sản đến quá trình kinh doanh

và hiệu quả kinh doanh đạt được trong kỳ. Có như vậy mới đưa ra được các

quyết định hợp lý về phân bổ vốn cho từng giai đoạn, từng loại tài sản của

doanh nghiệp.

- Xem xét mối quan hệ cân đối giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán:

Nợ ngắn hạn = Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn

TSCĐ và đầu tư dài hạn = Nguồn vốn chủ sở hữu + Vay dài hạn

Nếu doanh nghiệp đạt được sự cân bằng trên thì có thể thấy khả năng tự tài

trợ các loại tài sản ở doanh nghiệp tốt, mang lại sự an toàn về mặt tài chính. Tuy

nhiên, trong thực tế lại thường xảy ra một trong hai trường hợp sau:

- Trường hợp 1: Vế phải > vế trái: Điều đó thể hiện việc tài trợ của doanh

nghiệp từ các nguồn vốn là tốt, nguồn vốn dài hạn dư thừa để tài trợ cho tài sản

cố định và đầu tư dài hạn. Phần thừa này doanh nghiệp dùng cho các sử dụng

ngắn hạn. Đồng thời Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn

thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là tốt.

- Trường hợp 2: Vế trái > vế phải: Cho thấy, nguồn vốn dài hạn (nguồn vốn chủ

sở hữu + nợ dài hạn) nhỏ hơn tài sản cố định và đầu tư dài hạn, doanh nghiệp

đã dùng nợ ngắn hạn tài trợ cho các sử dụng dài hạn (tài sản cố định và đầu tư

dài hạn), tình hình tài tính của doanh nghiệp không lành mạnh. Đồng thời, nợ

ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chứng tỏ khả năng thanh

toán của doanh nghiệp là yếu vì chỉ có tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn

mới có thể chuyển đổi thành tiền trong thời gian ngắn để đảm bảo việc trả nợ.

-

3. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

Để kiểm soát các hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh

nghiệp cần đi sâu phân tích tình hình biến động của các khoản mục trong báo

cáo kết quả kinh doanh khi phân tích cần tính ra và so sánh mức và tỷ lệ biến

động của kỳ phân tích so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu . Đồng thời so sánh tình

hình biến động của từng chỉ tiêu với doanh thu thuần. Số liệu tính ra sẽ cho

người sử dụng nắm được nhiều thông tin hữu ích .

3.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng chi phí

Tỷ suất trị giá vốn hàng bán

giá vốn hàng bán x 100% =

trên doanh thu thuần Doanh thu thuần

phÝ

Chi Doanh

b¸n hµng thuÇn thu

Tỷ suất chi phí bán hàng * =  100% trên doanh thu thuần

Tỷ suất chi phí quản lý doanh

Chi

phÝ

nghiÖp

* =  100% nghiệp trên doanh thu thuần

lý nqu¶ doanh thu thuÇn Doanh

3.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh :

Lîi Doanh

nhuËn gép thuÇn thu

Tỷ suất lợi nhuận gộp trên = *  100% doanh thu thuần

Lîi

thuÕ

nhuËn tr­íc Doanh thu thuÇn

Tỷ suất lợi nhuận trước = *  100% thuế trên doanh thu thuần

Lîi

thuÕ sau nhuËn thu thuÇn

Doanh

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế = *  100% trên doanh thu thuần

4. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh và tình hình đầu tư tại công ty :

Việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu về tài sản là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá

trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả .

Khi phân tích tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh cần tính ra

và so sánh tổng nhu cầu về tổng tài sản (TSCĐ và TSLĐ) với nguồn vốn chủ sở

hữu hiện có và nguồn vốn vay nợ dài hạn . Nếu tổng số nguồn vốn có đủ hay lớn

hơn tổng nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp cần sử dụng số thừa này một cách

hợp lý, tránh bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, khi nguồn vốn không đủ đáp ứng nhu

cầu về tài sản thì doanh nghiệp cần phải có biện pháp huy động và sử dụng phù

hợp .

5. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Tình hình khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng công

tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng

thanh toán dồi dào ít bị chiếm dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại

nếu tình hình tài chính kém thì sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, các

khoản công nợ phải thu phải trả sẽ dây dưa kéo dài .

khả năng thanh toán nợ ngắn hạn :

khả năng thanh toán = Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn

nợ ngắn hạn nợ ngắn hạn

Hệ số này cho biết tương quan giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn, một sự thặng

dư lớn về tài sản lưu động trên nợ ngắn hạn có ý nghĩa là doanh nghiệp sẽ có đủ

khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ngay cả khi kinh doanh gặp khó khăn .

Khả năng thanh toán nhanh

hệ số khả năng = Tiền + đầu tư ngắn hạn +các khoản phải thu

thanh toán nhanh Nợ ngắn hạn

Hệ số khả năng = tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn

thanh toán hiện thời Tổng nợ ngắn hạn

Nếu hệ số này >=1 chứng tỏ doanh nghiệp có thừa khả hoặc đủ khả năng thanh

toán và tình hình tài chính của doanh nghiệp là tốt, sức mạnh tài chính dồi dào

doanh nghiệp có khả năng độc lập về mặt tài chính.

Nếu hệ số này < 1 chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp là thấp

tình hình tài chính không bình thường, nếu kéo dài và không áp dụng các biện

pháp cần thiết sẽ rơi vào tình trạng phá sản.

Hệ số khả năng thanh toán = Tổng Tài sản

tổng quát Tổng nợ phải trả

Nếu hệ số này < 1 là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp vốn chủ sở hữu bị mất

toàn bộ.

Số vòng thu hồi nợ = Doanh thu đã thu được tiền

Số dư bình quân các khoản nợ phải thu

Phần II, Phân tích tình hình tài chính

tại công ty Da giày Hà nội.

I. Đặc điểm chung của công ty Da giày Hà nội

1. Giới thiệu chung về công ty

Công ty Da giầy Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán kinh tế

độc lập tự chủ chịu sự quản lý của Tổng công ty Da giầy Việt Nam thuộc bộ công

nghiệp .

Tên giao dịch : Hanshoes

Trụ sở công ty: 409 Nguyễn Tam Trinh - HBT - Hà Nội (Đây vừa là nơi

giao dịch vừa là nơi sản xuất của công ty).

Ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là thuộc da sản xuất

giày da, giầy vải .

Công ty Da giầy Hà nội ngày nay là tiền thân của xưởng thuộc da do nhà tư

sản Pháp đầu tư và quản lý từ năm 1912 . Quá trình phát triển của công ty được

chia làm nhiều giai đoạn khác nhau gắn liền với sự chuyển đổi cơ chế của đất

nước.

* Giai đoạn 1912 - 1954 .

Do yêu cầu của cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, xưởng thuộc

da đã mở rộng thành "nhà máy thuộc da Đông Dương ". Mục đích hoạt động chủ

yếu Phục vụ cho chiến tranh xâm lược của Pháp . Sản lượng giai đoạn này đạt :

Da cứng : 10-15 tấn / năm

Da mềm : 200 - 300 tấn / năm (một bia = 30 cm*30 cm)

* Giai đoạn 1954 - 1970 :

Đến khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc thì nhà máy bị đóng cửa để giải

quyết các vấn đề kinh tế và chuyển nhượng lại cho phía Việt Nam và đổi tên thành

Công ty thuộc da Việt Nam . Đến năm 1958, công ty chuyển sang hình thức "công

ty hợp danh " và lấy tên là nhà máy thuộc da Thuỵ khuê với số vốn góp nhà nước

và các nhà tư sản Việt Nam .

* Giai đoạn 1970 đến 1990

từ sau năm 1970, công ty chuyển hẳn sang thành nhà máy quốc doanh

Trung ương, 100% vốn của nhà nước và từ đó hoạt động dưới sự quản lý của nhà

nước vaf có tên chính thức là nhà máy Da Thụy Khuê . Thời kỳ này nhà máy vẫn

phải hoạt động theo cơ chế bao cấp, sản xuất tiếp tục phát triển:

Da mềm : Trên 1.000.000 bia/ năm

Da cứng : Trên 100 tấn / năm

Keo công nghiệp : 50 - 70 tânhất / năm

* Giai đoạn 1990 đến nay :

Cùng với sự thay đổi của cơ chế quản lý kinh tế năm 1992, "Nhà máy Thuỵ

Khuê " được đổi tên thành " Công ty Da giầy Thuỵ Khuê " . Năm 1993 đổi tên

thành " Công ty Da giầy Hà nội " với tên giao dịch là quốc tế là HANSHOES

theo quyết định số 3110/CNN-TCLĐ ngày 17/12/1992 của Bộ trưởng Bộ công

nghiệp ngày 29/4/1993 Công ty chính thức mang tên "Công ty Da giày Hà nội"

theo quyết định số 388/CNN-TCLD của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp

2, Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp

- Hình thức sở hữu vốn : sở hữu nhà nước .

- Lĩnh vực kinh doanh : sản xuất giầy dép các loại, kinh doanh hoá chất vật

tư làm giầy.

- Tổng số công nhân viên 1000 người

Trong đó nhân viên quản lý văn phòng là : 200 người

và một số lao động thuê ngoài khác

3. Đặc điểm tổ chức bộ máy của công ty :

Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty tổ chức theo mô hình trực tuyến và

những người làm công ăn lương hiện không còn nữa công ty đã nhìn thẳng vào

tình hình tổ chức của của công ty và đã có sự thay đổi

Sơ đồ bộ máy Công ty Da giày Hà Nội.

Giám đốc

P.Giám đốc

P.Giám đốc

Phòn g ISO

Phòn g KD

Phòn g TC

Phòn g kế hoạch

Phòn g TCKT

Trung tâm kỹ thuật mẫu

Phòn g XNK

Phòn g. HC

XN Cao su

XN Dày vải

Xưởng cơ điện

XN Dày Da

LD Hà Việt TungShing

4, Đặc điểm công tác kế toán tại công ty Da giày Hà nội

- Công ty áp dụng chế độ kế toán 1141TàI SảN / QĐ/ CĐKT ngày 1/11/1995 .

- Niên độ kế toán bắt đầu 1/1 và kết thúc vào 31/12 hàng năm

- Hình thức sổ kế toán áp dụng : Nhật ký chứng từ .

- Phương pháp kế toán tài sản cố định : áp dụng theo 1062

- phương pháp kế toán hàng tồn kho : Nhập trước xuất trước

phương pháp giá trị hàng tồn kho cuối kỳ .

phương pháp hạch toán hàng tồn kho : kê khai thường xuyên

- Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ .

- Tình hình trích lập và hoàn dự phòng .

kế toán trưởng

kế toán tổng hợp

5, Tổ chức hoạt động của phòng kế toán :

kế toán nguyên vật liệu

kế toán thành phẩm

kế toán tiền lương

kế toán tiền gửi ngân

kế toán các xí nghiệp trực thuộc

Thủ quỹ

Chú thích : quan hệ chỉ đạo

quan hệ cung cấp số liệu

a, Nhiệm vụ của từng người trong bộ máy kế toán của công ty :

 Kế toán trưởng : có nhiệm vụ điều hành bộ máy kế toán thực thi theo đúng

chế độ , chính sách . Kế toán trưởng hướng dẫn chỉ đạo , kiểm tra hoạt động

của các nhân viên kế toán đồng thời thực hiện phần hành kế toán TSCĐ.

 kế toán tổng hợp : Kiêm phó phòng phụ trách kế toán thực thi theo đúng chế

độ , chính sách , kế toán thuế theo dõi đại lý , theo dõi công nợ , kế toán tổng

hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm , lập báo cáo tài chính.

 kế toán nguyên vật liệu , công cụ dụng cụ : có nhiệm vụ theo dõi tình hình

xuất nhập mua bán nguyên vật liệu , công cụ dụng cụ và thanh toán với nhà

cung cấp .

 kế toán tiền lương : có nhiệm vụ theo dõi chi tiết thanh toán tiền tạm ứng ,

tiền lương và các khoản trích theo lương cho cán bộ nhân viên, các khoản phải

trả , phải thu , phải nộp khác đồng thời theo dõi trích lập và sử dụng các quỹ

của công ty .

 kế toán thành phẩm : phản ánh kịp thời, chính xác tình hình nhập, xuất , tồn

kho thành phẩm .

 kế toán tiền gửi ngân hàng : Theo dõi tình hình tăng giảm tiền gửi ngân hàng

của công ty, tình hình mua bán ngoại tệ và thanh toán qua ngân hàng .

 thủ quỹ : có nhiệm vụ giữ tiền mặt , ghi sổ quỹ thu chi tiền mặt , cuối ngày đối

chiếu với sổ thanh toán tiền mặt.

b, Hình thức sổ kế toán áp dụng

Tổ chức ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ gồm : NKCT số

11,2,4,5,7,9,10, các bảng kê số 3,4,5,6 và các bảng phân bổ

Hiện nay công ty đang sử dụng hình thức kế toán Nhật ký chứng từ kết hợp

với sử dụng phần mềm CARD

chứng từ gốc

Sổ quỹ

bảng phân bổ

Sổ kế toán chi tiết

nhật ký chứng từ

Bảng cân đối số phát sinh

Bảng tổng hợp chi tiết

Sơ đồ trình tự ghi sổ kế toán

sổ cái các tài khoản

cáo

tài

Báo chính

Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của

Công ty Sản xuất Thương mại và Dịch vụ Da- Giầy

Đơn vị: Triệu đồng

stt Chỉ tiêu Năm Năm Chênh lệch

2001 2002 Giá trị Tỷ trọng

1 2 3 4=3-2 5=4/2

1. Doanh thu Thuần 50.412 56.565 6.153 12.2

2. Lợi nhuận sau thuế 57,733 57,740 7 0.01

3. Vốn kinh doanh Bquân 59.489 78.177 18.687 31.4

4. Số cán bộ CNV 1.200 1.100 -100 -8.3

5. Thu nhập Bquân CBCNV 450 550 100 22.2

6. Đã nộp ngân sách 241 2.681 2440 1012

7. Phải nộp Ngân sách 2.506 2.753 247 9.8

8. Tỷ lệ hoàn thành nghĩa vụ với 0,096 0,97 10,1 105

nhà nước (=6/7)

Nhìn chung năm 2003 các chỉ tiêu kinh tế của công ty Da giầy Hà nội đều

tăng theo chiều hướng đáng mừng . Doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế năm

2003 đều tăng cao hơn so với năm 2002 là 6,153 tỷ . Kéo theo đó là thu nhập của

cán bộ công nhân viên cũng được nâng cao đáng kể năm 2003 cao hơn năm 2002

là 22.2% càng làm cho cán bộ công nhân viên gắn bó với công ty hơn. Năm 2003

công ty đã đóng góp cho ngân sách nhà nước cao hơn năm 2001 là 2,440 tỷ lên tới

105,2% . Để đạt được kết quả như vậy vốn kinh doanh bình quân của công ty

cũng đã tăng lên 18,687 tỷ tương ứng với 31.4%. Số cán bộ công nhân viên của

công ty giảm 8.3% giúp tinh gọn được bộ máy cồng kềnh của công ty. Trước kia

trong tổng số 1100 công nhân viên thì có 210 người là nhân viên quản lý văn

phòng nhưng đến năm 2003 thì đã giảm xuống trong số 1000 công nhân viên thì

có 160 người là nhân viên quản lý văn phòng như vậy bộ máy quản lý của công ty

sẽ bớt cồng kềnh mà quản lý vẫn tốt.

II, Phân tích tình hình tài chính tại công ty Da giày Hà nội

1-Phân tích tình tài chính của Công ty

Đánh giá khái quát tình hình tài chính của Công ty sẽ cho thấy một cách sơ

bộ về sự thay đổi biến động của việc sử dụng tài sản, nguồn vốn cũng như tình

hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.

Đánh giá khái quát bảng cân đối kế toán

Theo số liệu của bảng cân đối khoán tổng tài sản hay tổng nguồn vốn mà

doanh nghiệp hiện nay đang quản lý và sử dụng có sự biến động từ 66,235 tỷ vào

năm 2002 lên tới 90,029 tỷ vào năm 2003. Nghĩa là tăng thêm 23,794 tỷ tương

đương 36%. Điều này cho thấy Công ty luôn cố gắng chú trọng vào việc nâng cao

khả năng huy động vốn. Đây sẽ là một điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quy

mô sản xuất kinh doanh áp dụng tiến độ kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy nhiên

khách quan mà nói việc gia tăng này chưa phản ánh thực chất tình hình hoạt động

kinh doanh của Công ty mà cần phải đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa các chỉ

tiêu trong bảng được đề cập ở các phần tiếp sau:

Theo nguyên tắc của bảng cân đối kế toán, tổng giá trị tài sản bằng tổng

nguồn vốn hay nói cách khác giá trị tổng tài sản tăng lên tỷ lệ thuận với giá trị

nguồn vốn. Việc gia tăng này có thể do một số nguyên nhân như việc gia tăng của

các khoản nợ phải trả hay của doanh nghiệp đưa thêm nguồn vốn CSH vào sử

dụng. Một số chỉ tiêu sau sẽ làm sáng tỏ:

Bảng 2: bảng phản ánh kết cấu tài chính và tình hình đầu tư

chênh lệch Năm 2002 Năm 2003 chỉ tiêu % số tiền

1 3 4 5=4-3 6=5/3

1. Tổng nguồn vốn 66.325 90.029 23.704 36

2. Nguồn vốn chủ sở hữu 6.64 16.655 10.015 151

3. TSCĐ và đầu tư Dài hạn 21.682 31.978 10.296 47

4 4. Tỷ suất đầu tư 0.32 0.36

22 5. Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ và ĐTDH 0.30 0.52

-0.09 6. Hệ số nợ 0.9 0.81

-0.05 7. Hệ số nợ ngắn hạn 0.68 0.63

-0.03 8. Hệ số nợ dài hạn 0.22 0.19

8 9. Tỷ suất tài trợ 10% 18%

Nhìn vào bảng 2 ta thấy, tỷ suất tài trợ của Công ty qua 2 năm có sự biến

đổi đôi chút. Năm 2002 tỷ suất là 10% tức là trong tổng số tài sản thì có 10% được

đầu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu sang đến năm 2003 có tăng đôi chút (18%).

Tuy nhiên tỷ suất này là quá thấp so với các doanh nghiệp cùng ngành bởi chỉ có

(10-18%) tài sản được đầu tư bằng chính số vốn của mình. Điều này cũng được

phản ánh ở hệ số nợ, khi vào năm 2002 một đồng vốn Công ty sử dụng thì có đến

90% là vay nợ. Sang năm 2003 có giảm xuống chút ít 81%. Nhưng nhìn chung hệ

số nợ của Công ty như vậy là quá cao nguồn vốn chủ sở hữu quá thấp so với các

doanh nghiệp cùng ngành, điều này sẽ được làm rõ hơn trong phần phân tích cơ

cấu nguồn vốn

Nhìn vào bảng tỷ suất đầu tư ta thấy rằng Công ty có chú ý đến việc đầu tư

vào TSCĐ năm 02 TSCĐ 32% tổng tài sản năm 03 tăng lên chiếm 36% tổng tài

sản tỷ suất tự tài trợ cho TSCĐ cũng tăng lên đáng kể từ 30% vào năm 2002, lên

đến 52% vào năm 2003. Tuy nhiên nhìn vào bảng ta thấy cả 2 chỉ tiêu của tỷ suất

tự tài trợ cho TSCĐ và ĐTDN đều nhỏ hơn 1 chứng tỏ khả năng tài chính đặc biệt

là vốn chủ sở hữu không đủ để trang bị TSCĐ. Điều này này có nghĩa là một bộ

phận TSCĐ được tài trợ bằng vốn vay mà trong đó phần vay ngắn hạn để đầu tư

vào TSCĐ. Mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào TSCĐ là điều rất cần thiết, tuy

nhiên tình hình kinh doanh của Công ty qua các năm vẫn chưa ổn định thì đầu tư

vào TSCĐ là một việc rất mạo hiểm nhất là sử dụng nguồn vốn vay ngắn hạn để

đầu tư vào TSCĐ. Nếu hoạt động không có hiệu qủa thì Công ty sẽ bị lỗ lớn vì chi

phí khấu hao của Công ty sẽ tăng sau khi đầu tư vào TSCĐ. Nhìn vào bảng cân đối

kế toán ta có thể thấy rõ điều này, lượng vay dài hạn của Công ty tăng có chút ít từ

14,759 tỷ lên 15,215 tăng thêm có 45,6 triệu trong khi đó vay ngắn hạn lại tăng lên

một cách đáng kể đó là 44,925 tỷ. Như vậy có thể kết luận giá trị tài sản tăng lên

chủ yếu là do được đầu tư bằng nợ ngắn hạn

1.2. Phân tích kết cấu tài sản năm 2003

Bảng 2 : Bảng phân tích kết cấu tài sản năm 2000

Đơn vị: Triệu đồng

Đầu năm Cuối năm Chênh lệch

Chỉ tiêu Số tiền Số tiền % % Số tiền %

1 2 3 4 6=4-2 7=6/2 5

30 A.TSLĐ&ĐTNH 44.643 67.3 58.050 64.5 13.404

-95 I.Tiền 5.663 8.53 263 0.29 -5.400

72.9 II.Phải thu 39.3 45.134 50.1 19.042 26.092

-4.9 III.Hàng tồn kho 16.7 10.568 11.7 -550 11.118

17.8 IV.TSLĐ khác 1.769 2.66 2.084 2.3 315

47.4 B.TSCĐ&ĐTDH 21.682 32.69 31. 978 35.5 10.296

37.8 I.TSCĐ hữu hình 21.682 32.69 29.878 33.2 8.196

0 II. ĐTtài chính DH 0 0 0 0 0

100 III.CPXD cơ bản 0 0 2.100 100 2.100

Tổng cộng tài sản 66.325 100% 90.029 100% 23.704 36%

Qua bảng này cho thấy, so với năm 2002 thì giá trị tài sản năm 2003 đã

tăng 23,704 tỷ tương đương với 36%. Cụ thể TSLĐ và đầu tư ngắn hạn đã tăng

thêm 13,404 tỷ tương đương 30% so với năm 2002 tính riêng năm 2003 lượng

TSLĐ và và đầu tư ngắn hạn chiếm 64,5% so với tổng tài sản. Chứng tỏ Công ty

đã tăng quy mô sản xuất rất mạnh (30%). Tuy TSLĐ và đầu tư ngắn hạn tăng về

số tuyệt đối nhưng lại giảm về số tương đối năm 2002 tỷ lệ TSLĐ và ĐTNH so

với tổng tài sản là 67,3% nhưng đến năm 2003 thì chỉ còn 64,5% đây là dấu hiệu

thiếu lành mạnh đối với tình hình tài sản, tiền mặt của Công ty giảm nguyên nhân

là do các khoản phải trả thu khách hàng tăng. Nhìn vào bảng ta thấy các khoản

phải thu khách hàng tăng từ 26.092 năm 2002 lên 45.134 năm 2003 tức tăng thêm

13.042 tỷ tương đương với 72,9%. Tỷ trọng của các khoản phải thu so với tổng tài

sản tăng từ 39,3%/năm 2002 lên 50,1% vào năm 2003. Các khoản phải thu của

Công ty như vậy là quá nhiều so với các doanh nghiệp cùng ngành, gâuy tình trạng

ứ đọng vốn, và bị chiếm dụng vốn.

Lượng hàng tồn kho có xu hướng giảm chút ít, so với năm 2002 thì lượng

hàng tồn kho giảm 550 triệu tương ứng với 4,9% đây là chiều hướng đáng mừng.

Tuy nhiên doanh nghiệp cần phải tiếp thu cố gắng giảm tỷ trạng hàng tồn kho

xuống tỷ lệ thấp hơn vì bởi tỷ lệ hàng tồn kho như vậy là không phải là thấp.

Nguyên nhân của tỷ trọng hàng tồn kho lớn là do tồn kho nguyên vật liệu chính và

tồn kho thành phẩm nhiều điều này chứng tỏ có một lượng vốn bị ứ đọng trong

quá trình này dẫn tới vòng quay hàng tồn kho chậm

Năm 2003 TSCĐ và đầu tư dài hạn tăng mạnh tương ứng 47,4% trong đó

TSCĐ cũng tăng mạnh. Điều này chứng tỏ Công ty đã mạnh dạn đầu tư mới. Năm

2002 TSCĐ của Công ty là 21,682 tỷ Đến cuối năm 200 TSCĐ của Công ty đã là

29,878 tỷ, về số tuyệt đối thì TSCĐ tăng thêm 8,196 tỷ còn về số tương đối thì

tăng từ 32,65% lên đến 33,2% ở năm 2003, với việc đầu tư mới này, hiệu quả sử

dụng vốn của doanh nghiệp trước mắt giảm vì TSCĐ có thời gian sử dụng dài và

luân chuyển chậm. Nhưng về lâu dài, đây sẽ là một thuận lợi lớn để tạo ra năng

lực sản xuất tốt hơn, giúp Công ty có điều kiện cạnh tranh mạnh và thu hút được

nhiều hợp đồng sản xuất.

Đánh giá kết cấu tài sản của Công ty mới chỉ cho ta thấy một cái nhìn

chung về tình hình tăng giảm tài sản và đánh giá tổng quát mức độ hợp lý trong

kết cấu tài sản của công ty. Tuy nhiên, do đặc trưng của Công ty có tính thời vụ

cao nên việc tăng giảm tài sản có nhiều ảnh hưởng. Do đó, để đánh giá được kết

cấu tài sản của Công ty cần đặt chúng vào trong từng hoàn cảnh và việc sử dụng

tài sản .

1.3. Phân tích cơ cấu nguồn vốn.

Bảng 3 : Phân tích cơ cấu nguồn vốn

Đơn vị : triệu đồng

31/12/1999 31/12/2000 Chênh lệch Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền % Số tiền %

4 5 6=4-2 7=6/2 1 2 3

73.374 81.5 13.690 22.9 A.Nợ phải trả 59.684 90

44.925 67.8 56.638 63 11.714 26 I.Nợ ngắn hạn

14.759 22.2 16.735 18.6 1.976 13.3 II.Nợ dài hạn

B.Nguồn vốn CSH 6.640 10 16.655 18.5 10.016 150.8

I. Nguồn vốn quỹ 6.640 10 16.655 18.5 10.016 150.8

II, nguồn kinh phí 0 0 0 0 0 0

Tổng cộng nguồn vốn 66.325 100 90.029 100 23.704 35.7

Nhìn vào bảng phân tích kết cấu nguồn vốn của Công ty cho thấy năm

2002, nguồn vốn chủ sở hữu là quá thấp so với các khoản phải trả nguồn vốn chủ

sử hữu chỉ chiếm có 18,5% nợ phải trả thì chiếm 81,5%, như vậy tình hình phát

triển của Công ty là rất căng thẳng. Nhìn vào các khoản nợ phải trả của Công ty có

tăng về số tuyệt đối năm 2002 là 59,684 tỷ đến cuối năm 2003 là 73,374 tỷ. Tuy

nhiên tỷ trọng các khoản trong nợ phải trả so với tổng nguồn vốn lại giảm từ 90%

năm 2002 xuống còn 81,5% vào năm 2003. Tỷ trọng của nợ ngắm hạn và dài hạn

cũng giảm đôi chút. Năm 2002 nợ ngắn hạn là 44,925 tỷ đồng đến năm 2003 tăng

lên 56,638 tỷ nhưng tỷ trọng của nợ ngân hàng so với nguồn vốn lại giảm xuống

từ 67,8% (2002) còn 63% (2003). Tương tự các khoản nợ dài hạn cũng tăng thêm

1,976 tỷ nhưng tỷ trọng của chúng lại giảm 22,2% (2002) xuống còn 18,6% năm

2003. Nói chung các khoản nợ phải trả của Công ty đều tăng nhưng tỷ trọng của

chúng so với tổng nguồn vốn lại giảm. Nguyên nhân là do nguồn vốn chủ sở hữu

của doanh nghiệp tăng đáng kể nên tỷ trọng của nợ phải trả có giảm

Nhưng nhìn chung thì nguồn vốn của Công ty như vậy là rất bất hợp lý

nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm có 18,5% trong nguồn vốn trong khi đó nợ phải

trả thì chiếm tới 81,5% mà nợ ngắn hạn lại chiếm những 63% trong tổng nợ, như

vậy thì tình trạng tài chính của Công ty là rất căng thẳng. Vì nếu các khoản nợ

ngắn hạn đến hạn trả thì việc thanh toán của Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn vì lúc

này một số khoản nợ ngắn hạn vẫn đang được sử dụng trong các mục đích dài hạn.

Như vậy Công ty sẽ phải chịu một sự rủi ro lớn. mặc dù Công ty vay nợ để mở

rộng sản xuất kinh doanh nhưng vẫn vay nợ này lại quá lớn khiến cho doanh

nghiệp cũng không thể chủ động trong việc sản xuất kinh doanh. Đồng thời với hệ

số nợ cao như vậy sẽ là một khó khăn lớn của Công ty khi muốn huy động vốn để

đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh trong tương lai

Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay hầu hết các doanh

nghiệp Nhà nước đều phải vay nợ rất nhiều để đảm bảo sản xuất kinh doanh. Hơn

nữa trong nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập hiện nay để bắt kịp tốc độ

phát triển của thế giới và tạo được một chỗ đứng cho Công ty trên thương trường,

Công ty buộc phải mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Mặt khác, tình hình

chung của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là thiếu vốn kinh doanh và thua lỗ

nhiều. Công ty Da giầy Hà Nội cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Do vậy

việc Công ty đi vay nợ cũng là điều tất yếu

1.4. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh

Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải đảm

bảo được nguồn vốn đầy đủ mà cụ thể là phải có tài sản, bao gồm TSCĐ và

TSLĐ. Việc đảm bảo đầy đủ về nhu cầu tài sản là một vấn đề tất yếu để đáp ứng

cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Để đánh giá được

vấn đề này cần phải tính ra và so sánh tổng nhu cầu về tài sản với nguồn tài trợ

thường xuyên (bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu hiện có và nguồn vốn vay nợ dài

hạn).

Bảng 4: phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn

chênh lệch Nguồn tài trợ Tài sản Chỉ tiêu thường xuyên % Số tiền

2002 66.325 21.399 44.926 67.7%

2003 90.029 33.390 56.639 63%

Nhìn vào bảng ta thấy nguồn tài trợ thường xuyên không đủ để đáp ứng nhu

cầu về tài sản hco hoạt động sản xuất kinh doanh. Phần chênh lệch chính là phần

nguồn vốn thiếu cho việc đầu tư tài sản, mà cụ thể vào năm 2002 tỷ lệ thiếu đã lên

tới 67,7% tương ứng 44,926 tỷ thì sang năm 2003 tỷ lệ thiếu đã lên tới 56,683 tỷ

tương đương 63%. Tuy tỷ lệ thiếu có giảm xuống nhưng nhìn chung thì nguồn tài

trợ thường xuyên của doanh nghiệp về tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh

là quá thấp. Điều này dẫn đến Công ty phải vay ngắn hạn hay chiếm dụng vốn để

bù đắp.

Để bù đắp lượng thiếu hụt này Công ty đã phải sử dụng đến nguồn tài trợ

tạm thời được lấy từ khoản nợ phải trả mà chủ yếu là nợ ngắn hạn. Lượng tiền lấy

từ nguồn tài trợ này đã phản ánh tình hình tài chính của Công ty là rất bấp bênh.

2- Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh (lãi lỗ)

phụ lục

Bảng 5 : Bảng phân tích kết quả hoạt động kinh doanh

Đơn vị: triệu đồng

Chênh lệch Năm Năm Năm 99/00 Chỉ tiêu 2001 2002 2003 % Số tiền

1 2 3 4 5=4-3 6=5/3

1.Tổng doanh thu 24.283 50.412 56.565 6.153 12.2

2.Chiết khấu bán hàng 0 0 0 0 0

3.Giảm giá hàng bán 0 0 0 0 0

4.Hàng bị trả lại 0 0 0 0 0

5.Thuế xuất nhập khẩu phải nộp 0 0 0 0 0

6.Doanh thu thuần 24.283 50.412 56.565 6.153 12.2

7.Giá vốn hàng bán 17.741 43.523 51.845 8.322 19

8.Lợi tức gộp 6.542 6.889 4.719 -2.170 -31.5

9.Chi phí bán hàng 1.909 1.263 983 -280 -22

10.Chi phí quản lý doanh nghiệp 4.578 5.543 3.617 -1.926 34.7

11.Lợi tức thuần từ HĐKD 82 118 55 36 44

12.Lợi tức hoạt động tài chính 33 0 50 50 100

-Thu nhập hoạt động tài chính 33 0 50 50 100

-Chi phí hoạt động tài chính 0 0 0 0 0

13.Lợi tức bất thường 4.018 0 -83 -83 100

-Thu nhập bất thường 4.353 0 860 860 100

-Chi phí bất thường 335 0 943 943 100

14.Tổng lợi tức trước thuế 4.106 82 85 3 3.7

15.Thuế lợi tức phải nộp 1.314 26.3 27.2 0.9 3.4

16.Lợi tức sau thuế 2.792 55.7 57.8 2.1 3.8

Qua bảng kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy sang đến năm 2003 doanh

thu thuần tăng 80 với năm 2002 là 6,153 tỷ tương đương 12,2% và lợi nhuận sau

thuế cũng tăng một chút. Từ 55,7 triệu 2002 lên 57,8 triệu năm 2003 tương đương

3,8% giá vốn hàng bán cũng tăng mạnh đây là dấu hiệu rất tốt trong hoạt động

kinh doanh.

Vì doanh thu thuần chỉ tăng có 12,2% trong khi đó giá vốn hàng bán lại

tăng 19% vào giữa năm 2002 và 2003. Sự tăng giảm bấp bênh của doanh thu và

giá vốn hàng bán chứng tỏ hoạt động kinh doanh của Công ty là chưa ổn định.

Nhưng để thấy hết được sự tăng giảm kết quả kinh doanh phải so sánh tỷ lệ của

từng chỉ tiêu với doanh thu thuần.

Bảng 6 : Phân tích mức độ sử dụng chi phí

Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003

91.6 - Tỷ suất giá vốn hàng bán trên doanh thu thuần 86.3

1.7 - Tỷ suất chi phí bán hàng trên doanh thu thuần 2.5

6.4 - Tỷ suất chi phí QLDN trên doanh thu thuần 10.9

- Tỷ suất tổng chi phí trên doanh thu thuần 99.83 99.78

8.4 - Tỷ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu thuần 13.7

0.15 - Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu thuần 0.16

0.10 - Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần 0.11

- Nhìn vào bảng trên ta thấy mặc dù doanh thu thuần năm 2003 có tăng lên

so với 2002 là 6,153 tỷ nhưng tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu thần cũng lại

tăng lên đây là dấu hiệu không tốt. Vì nếu tỷ suất CNH bán trên doanh thu thuần

càng tăng thì lợi nhuận càng giảm. Chính điều này còn làm cho tỷ suất lợi tức gộp

phải giảm xuống rõ rệt sang năm 2003 chỉ chiếm 8,4% so với doanh thu thuần.

Điều này chứng tỏ sự gia tăng của giá vốn hàng bán không tỷ lệ vào sự biến động

của doanh thu thuần nguyên nhân của giá vốn hàng bán tăng là do giá nguyên vật

liệu rất cao, chiếm 45,953 tỷ chiếm 88,6% so với giá vốn hàng bán. Đây là nguyên

nhân chính làm cho giá vốn hàng bán của Công ty chiếm 1 tỷ trọng lớn trong

doanh thu thuần.

Tỷ lệ chi phí bán hàng trên doanh thu thuần năm 2003 cũng giảm 0,8% so

với năm 2002 mà nguyên nhân là sự giảm đi của chi phí vận chuyển hàng hoá.

Đây là một ưu điểm của Công ty vì đối với một hoạt động trong lĩnh vực kinh

doanh thì mức độ sử dụng chi phí bán hàng như vậy là tương đối hợp lý (1,7). Tiếp

đó là chi phí trong doanh nghiệp cũng giảm chút ít, nếu ở năm 2002 chiếm 10,5%

so với doanh thu thuần thì sang đến năm 2003 còn 6,4%. Nguyên nhân của việc

giảm chi phí quản lý chủ yếu là do tình hình sản xuất không ổn định nên Công ty

đã chủ động thu gọn bộ máy sản xuất, giảm tối đa các loại chi phí điện nước, chi

phí tiếp khách. Nhìn chung chi phí quản lý doanh nghiệp như vậy là hợp lý

(6,4%). Trong khi doanh nghiệp đi vay rất nhiều và trả lãi tiền vay cũng tính vào

chi phí quản lý.

Doanh thu thuần 2003 tăng so với năm 2002, nhưng tỷ suất lợi nhuận trước

thuế và sau thuế so với doanh thu thuần lại giảm băm 2002 LNST 0,11 đến năm

2003 là 0,1. Đây là một dấu hiệu không tốt đối với tình hình sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp. Mặc dù lợi nhuận sau thuế và trước thuế có tăng lên về số tuyệt

đối. Năm 2003 lợi nhuận sau thuế tăng thêm 2,1 triệu, tương đương 3,8%. Nhưng

nhìn chung tỷ suất lợi nhuận của Công ty hiện nay là quá thấp do với các doanh

nghiệp cùng ngành.

Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2003 có giảm nhiều

nhưng tỷ suất lợi nhuận 2003 vẫn thấp hơn năm 2002 chủ yếu là do tỷ lệ giá vốn

hàng bán tăng và do chi phí khấu hao nhiều do TSCĐ của Công ty tăng lên làm

cho lợi nhuận của Công ty bị giảm. Một nguyên nhân nữa làm cho lợi nhuận giảm

đó là do lợi nhuận bất thường lợi tức bất thường giảm 83 triệu do chi phí bất

thường cao hơn so với thu nhập bất thường là 83 triệu.

3- Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản

3.1. Phân tích tốc độ luân chuyển khoản phải thu

Trong quá trình bán hàng tiêu htụ sản phẩm, Công ty không thể tránh được

tình trạng mua chịu của khách hàng, nếu để mua chịu nhiều thì các khoản phải thu

sẽ từ đó mà tăng lên, còn nếu không thì sẽ rất khó có được khách hàng đặc biệt là

khách hàng thường xuyên nhất là ở trong một nền kinh tế thị trường cạnh tranh.

Qua vòng quay của các khoản phải thu ta sẽ thấy được khả năng thu tiền về cho

Công ty ra sao.

Bảng 5 : Bảng phân tích tốc độ luân chuyển các khoản phải thu

Chênh lệch Năm 2002 Năm 2003 Chỉ tiêu % Số tiền

38.6 1. Các khoản phải thu bình quân 26.414 36.613 10.199

43.2 2. Doanh thu thuần 50.412 56.565 16.163

3. Vòng quay các khoản phải thu 1.9 vòng 1.54 vòng -0.36 -18.9

4. Kỳ thu tiền trung bình 192 ngày 257 ngày -10.7 -4.1

Bảng 5 cho thấy, doanh thu thuần của Công ty 43,2%. Tuy nhiên vòng quay

các khoản phải thu qua 2 năm cũng có chiều hướng đi xuống, tình hình tiêu thụ

sản phẩm kém đi, cộng với việc cho bán chịu không thu tiền nay dẫn tới năm 2002

được 1,9 vòng năm 2003 giảm xuống còn 1,54 vòng. Kết quả này dẫn đến kỳ thu

tiền trung bình tăng lên theo, từ 192 ngày 2002 lên đến 237 ngày năm 2003. Đây

là dấu hiệu không tốt vì vốn của Công ty đang bị chiếm dụng, khả năng quay vòng

vốn để tài sản xuất kém. Công ty cần phải tìm biện pháp để tăng vòng quay của

các khoản phải thu vì số vòng quay của các khoản phải thu là quá thấp so với các

doanh nghiệp cùng ngành.

3.2. Phân tích tốc độ luân chuyển hàng tồn kho

Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho phản ánh sự quay vòng hàng hoá vật tư

dự trữ trong kho nhanh hay chậm có thể nhận thấy qua 2 chỉ tiêu số vòng qua kho

và số ngày trung bình một vòng quay kho

Bảng 6: số vòng quay kho

Chênh lệch Năm 2002 Năm 2003 Chỉ tiêu % Số tiền

1. hàng tồn kho bình quân 8.612 10.843 2.231 26%

2.Số vòng quay kho 5.4 vòng 5.9 vòng 0.5 vòng 9.2

3. Số vòng trung bình vòng quay 67.6 ngày 61.8 ngày -5.8 ngày -8.6

kho

Nhìn vào bảng 6 trên ta thấy số vòng quay kho của Công ty đạt mức trung

bình năm 2002 là 5,4 vòng đến năm 2003 đã tăng lên 5,9 vòng tương ứng với

9,2%, đây là dấu hiệu đáng mừng vởi số vòng quay của bàng tồn kho lại tăng lên

cùng với do số vòng quay hàng tồn kho tăng nên số ngày trung bình vòng quay

kho giảm từ 67,6% ngày xuống còn 61,8 ngày. Thật ra việc giảm đi 6 ngày đối với

Công ty không phải là quá nhiều nhưng cũng đủ đểư cho thấy được khả năng tiêu

thụ sản phẩm của Công ty có chiều hướng đi lên.

Nhìn chung vòng quay hàng tồn kho tăng và số ngày trung bình vòng quay

kho có giảm nhưng tỷ lệ vẫn còn thấp, chưa được cao so với các doanh nghiệp

cùng ngành. Do vậy Công ty vẫn phải tiếp tục giảm tỷ lệ hàng tồn kho và tăng

vòng quay hàng tồn kho lên.

4- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn

Đối với doanh nghiệp để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần

phải có một lượng vốn nhất định, vốn được coi là môt tiền đề không thể thiếu và

việc sử dụng vốn hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả ca, tiết kiệm

được những chi phí không cần thiết, tránh lãng phí. Khi phân tích ta nên xem xét

khả năng sử dụng vốn lưu động, vốn cố định so với doanh thu thuần.

Bảng7: phân tích hiệu quả sử dụng vốn

Đơn vị :triệu đồng

Chênh lệch 2002 2003 Chỉ tiêu Số tiền %

1. Doanh thu thuần 50.412 56.565 6.153 12.2

2. Vốn lưu động bình quân 33.477 50.804 17.327 51.7

3. Hiệu quả sử dụng vốn LĐ 1.5 1.1 -0.4 -26.6

4. Vốn cố định bình quân 14.765 14.987 222 1.5

5. Hiệu quả sử dụng vốn CĐ 3.4 3.8 0.4 11.7

31.4 6. Vốn kinh doanh bình quân 59.490 78.177 18.687

-15 7. Hiệu quả sử dụng vốn KD 0.85 0.72 -0.13

Qua bảng trên ta chỉ ra cho thấy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và vốn

lưu động giảm so với năm 2002. Vốn lưu động bình quân của Công ty tăng lên

đáng kể. Năm 2002 là 33,477 tỷ đến năm 2003 đã lên tới 50.804 tỷ vốn lưu động

đã tăng thêm 17,327 tỷ tương ứng 51,7%. Tuy vốn lưu động có tăng lên nhưng

hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty lại giảm, từ 1,5 vòng năm 2002 xuống

còn 1,1 vòng năm 2003. nếu vào năm 2002, 1 đồng vốn lưu động tại ra, 1,5 đồng

doanh thu dang đến năm 2003, 1 đồng vốn lưu động chỉ tạo được 1,1 đồng doanh

thu thuần. Nguyên nhân là do Công ty có khoản phải thu và lượng hàng tồn kho

lớn, khiến hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng giảm đi.

Năm 2002 hiệu quả sử dụng vốn lưu động có tăng nhẹ so với năm 2003.

Năm 2002 hiệu quả sử dụng vốn cố định là 3,4 vòng tức là 1 đồng vốn cố định tạo

ra 3,4 đồng doanh thu thuần thì sang đến năm 2003, tăng lên 3,8 (tức 1 đồng vốn

cố định tạo ra 3,8 đồng doanh thu thuần). Lý do bởi năm 2003 Công ty mở rộng

quy mô sản xuất.

Tuy nhiên hiệu quả sử dụng của vốn kinh doanh có giảm so với năm 2003

là 0,85 thì đến năm 2003 giảm xuống còn 0,72 dẫn đến năm 2003 giảm suống còn

0,72 dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là quá thấp so với các doanh

nghiệp cùng ngành

Tóm lại, tình hình sử dụng vốn tại Công ty là thấp. Điều này chứng tỏ Công

ty làm ăn không mấy hiệu quả và sử dụng đồng vốn không hợp lý.

5- Phân tích khả năng thanh toán

5.1. Phân tích tình hình công nợ phải thu và công nợ phải trả

Trước khi tiến hành phân tích khả năng thanh toán việc đánh giá tình hình

công nợ phải thu và công nợ phải trả là một trong những nội dung quan trọng của

phân tích tình hình TSCD. Bởi vì qua thực trạng tình hình công nợ doanh nghiệp,

có thể đánh giá được thực trạng khả năng thanh toán nói riêng và về tình hình tài

chính nói chung để từ đó giúp các nhà quản lý đưa các các quyết định đúng đắn

trong việc sử lý công nợ nói riêng và về tình hình tài chính nói chung để từ đó

giúp các nhà quản lý đưa ra được các quyết định đúng đắn trong việc xử lý công

nợ nói riêng và về tình hình tài chính nói chung.

Bảng 8 phân tích tình hình công nợ phải thu và công nợ phải trả

Đơn vị :triệu đồng

Chênh lệch 2002 2003 Chỉ tiêu Số tiền %

1 2 3 4=3-2 5=4/2

I.Các khoản phải thu 26.092 45.134 19.042 73

1.Phải thu từ khách hàng 12.375 20.481 8.100 65.5

2.Trả trước cho người bán 68 20 -48 -70

3.Phải thu nội bộ 12.700 21.370 8.670 68.2

4.Phải thu khác 525 2.098 1.573 29.9

II.Các khoản phải trả 44.925 56.678 11.713 31.7

36.936 49.463 12.527 1. Vay ngắn hạn .34

456 14.759 15.215 2.Nợ dài hạn 0

265 5.617 5.882 3.phải trả người bán 4.7

39 272 311 4.Người mua trả trước 14.3

73 573 646 5. thuế và các khoản phải nộp 12.7

456 334 -122 -26.7 6.Phải trả CNV (BHXH)

0 0 0 7.Phải trả nội bộ 0

-1.069 1.069 0 8.Phải trả khác 100

Qua bảng trên cho thấy:

+ Các khoản phải thu của Công ty tăng lân rất nhiều 90% đến năm 2003 só

tiền mà Công ty bị đơn vị khác chiếm dụng đã lên tới 45.134 chiếm 73% giá trị

tổng tài sản. Nguyên nhân là do Công ty do khách hàng nợ tiền ngày một nhiều

hơn và do sản phẩm của Công ty còn chưa có tính cạnh tranh cao nên phải cho

khách hàng thanh toán chậm làm ảnh hưởng đến vòng quay của Công ty dó là các

khoản phải trả trước cho khách hàng cũng giảm năm 2002 là 68 triệu đến năm

2003 chỉ có 20 triệu đây cũng là một dấu hiệu không tốt bởi vì khoản trả trước cho

người bán giảm Công ty sẽ không đảm bảo được mức dự trữ an toàn về nguyên

vật liệu dùng cho nhu cầu về sản xuất và ổn định giá cả. Các khoản phải thu nội bộ

và phải thu khác cũng tăng. Các khoản phải thu nội bộ tăng thêm 8.670 tỷ 2003

chiếm 68% tỷ trọng. Các khoản phải thu khác cũng tăng lên từ 525 triệu năm 2002

lên đến 2,098 tỷ vào năm 2003 nguyên nhân là do Công ty cho thấy một số đơn vị

trong ngày vay vốn dưới hình thức nợ ngắn hạn nên làm cho các khoản phải thu

cũng tăng lên.

Các khoản phải trả cũng tăng lên nhiều năm 2003 mà chủ yếu là sự tăng lên

của các khoản vay ngắn hạn và các khoản phải cho người bán mà nguyên nhân

chính là do có một lượng vốn bị chiếm dụng cùng khả năng tự tài trợ bằng nguồn

vốn chủ sở hữu kém nên Công ty phải sử dụng đến biện pháp vay nợ

+ Các khoản phải trả lớn hơn các khoản phải thu chứng tỏ Công ty tăng

cường chiếm dụng vốn nhiều hơn là Công ty bị chiếm dụng vốn. Cu thể là các

khoản phải trả năm 2002 là 44,925 tỷ đến năm 2003 đã tăng lên 56,638 tỷ tức tăng

thêm 11,713 tỷ trong đó nợ ngắn hạn tăng 12,527 tỷ là phải trả cho người bán tăng

265 triệu và nợ dài hạn tăng 456 triệu. Đáng lo ngại là các khoản nợ ngắn hạn của

Công ty tăng quá nhiều tương ứng 34%. Tuy nhiên ta cũng cần phải xem xét tình

hình khả năng thanh toán của Công ty qua bảng sau:

5.2. Phân tích khả năng thanh toán

Khả năng thanh toán là khả năng doanh nghiệp dùng tiền và các khoản

tương đương tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Thông qua nghiên cứu khả

năng thanh toán có thể đánh giá được thực trạng của tình hình tài chính của doanh

nghiệp và cũng thông qua đó biết được xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Để

phân tích khả năng thanh toán ta cần lập bảng sau:

Bảng 9: phân tích khả năng thanh toán

Chênh lệch 2002 2003 Chỉ tiêu Số tiền %

Hệ số k/ n thanh toán tổng quát 1.12 1.1 -0.02 -0.01

Hệ số k/n thanh toán hiện thời 0.96 0.99 0.03 3.1

Hệ số khả năng thanh toán nhanh 0.73 0.7 -0.03 4.1

Hệ số vốn bằng tiền 0.12 0.004 -0.116 96

Trên cơ sở bảng phân tích, ta thấy hầu hết các hệ số k/n thanh toán đều

giảm đi so với năm trước chỉ trừ có khả năng thanh toán hiện thời là có tăng lên

một chút.

Khả năng thanh toán của Công ty có giảm đi một chút từ 1,12 năm 2002

xuống còn 1,1 vào năm 2003. Như vậy có thể thấy rằng hệ số k/n thanh toán tổng

quát giảm chút ít là do Công ty vay vốn để đầu tư vào TSCĐ. Tuy nhiên hệ số

thanh toán quá cao, có nghĩa là TSCĐ của Công ty không bị ứ đọng, có thể thấy

rằng TSCĐ năm 2003 tăng thêm 8,196 tỷ trong đó vay dài hạn chưa tăng thêm

1,976 tỷ trong do nợ ngắn hạn tăng thêm 11,714 tỷ, chứng tỏ khả năng thanh toán

tổng quát giảm là rất đáng lo ngại.

Hệ số khả năng thanh toán nhanh cũng giảm 0,03 so với năm 2002, nguyên

nhân là do Công ty vay ngắn hạn quá nhiều. Điều này khiến cho tình hình tài chính

của Công ty trở nên rất căng thẳng.

Hệ số khả năng thanh toán hiện thời của Công ty tại thời điểm 2003 của

Công ty là rất tốt do TSLĐ tăng 13,404 tỷ trong khi đó, ngắn hạn lại tăng ít hơn (2

tỷ) vì xét về tốc độ tăng thì TSLĐ tăng nhanh hơn là NNH tốc độ tăng của TSLĐ

là 30% tốc độ tăng của NNH là 26%. Do đó hệ số k/n thanh toán hiện thời của

Công ty là ổn định

Mặc dù hệ số k/n thanh toán hiện thời tăng nhưng hệ số vốn bằng tiền của

Công ty tại thời điểm 2003 là quá thấp và giảm rất nhiều so với năm 2002. Nếu

như hệ số vốn bằng tiền của Công ty năm 2002 là 0,12 thì đến năm 2003 thì chỉ

còn 0.004 .So với năm 2002 hệ số vốn bằng tiền giảm 5,4 tỷ. Tương ứng 95%.

Điều này khiến tình hình tài chính của Công ty rất căng thẳng và làm tăng rủi ro

tài chính. Hệ số vốn bằng tiền giảm là do các khoản phải thu rất nhiều và lượng

hàng tồn kho cũng khá lớn. Do vậy Công ty cần phải xác định mức tiền mặt dự trữ

cần thiết theo kế hoạch lưu chuyển tiền tệ một cách hợp lý, xác định mức tồn kho

hợp lý và giải phóng thành phẩm tồn kho.

Tóm lại, nếu với tình hình như trên thì khả năng thanh toán của Công ty

như vậy là rất kém, mà nguyên nhân chính là do các khoản phải thu lớn, vay nợ

nhiều, vòng quay của vốn lại chậm, khả năng đáp ứng tiền mặt cho việc chi tiêu tại

chỗ kém lên dẫn tới khả năng thanh toán các khoản nợ tới hạn lại trở nên rất khó

khăn.

6- Phân tích khả năng sinh lời

Chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả tài chính cuối

cùng và quan trọng của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau một quá trình sản

xuất kinh doanh, Công ty muốn quan tâm xem kết quả hoạt động của mình lãi hay

lỗ và đưa vào đó làm luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết

định tài chính trong tương lai.

Chênh lệch 2002 2003 Chỉ tiêu Số tiền %

1. Doanh thu thuần 50.412 56.565 6.153 12.2

2.Lợi tức gộp . 6.889 4.719 -2.170 31.5

3.Lợi tức trước thuế 82 85 3 3.7

4.Lợi tức sau thuế 55.7 57.8 2.1 3.8

5. Vốn lưu động bình quân 33.477 50.804 17.327 51.7

6.Vốn cố định bình quân 14.765 14.987 222 1.5

31.4 7.Vốn kinh doanh bình quân 59.490 78.177 18.687

86.5 8.Vốn chủ sở hữu bình quân 6.244 11.647 5.403

9 9.Tỷ suất lợi nhuận doanh thu 0.11 0.10 -0.01

29 10.Tỷ suất lợi nhuận vốn LĐ 0.16 0.11 -0.04

2.7 11.Tỷ suất lợi nhuận vốn CĐ 0.37 0.38 0.01

-22.2 12 Tỷ suất lợi nhuận ròng VKD 0.09 0.07 -0.02

-44 13.Tỷ suất lợi nhuận vốn CSH 0.9 0.5 -0.4

Nhìn vào bảng phân tích cho thấy hầu hết các tỷ suất lợi nhuận năm 2002

đều giảm so với năm 2003, chỉ có duy nhất tỷ suât lợi nhuận vốn cố định là tăng

lên một chút.

Chỉ tiêu doanh thu thuần tăng lên nhưng chỉ tiêu lợi nhuận doanh thu lại

giảm đi so với năm 2002, lợi nhuận sau thếu năm 2002 chiếm 0.11% so với doanh

thu thuân thì lợi nhuận sau thuế năm 2003 thì chỉ chiếm 10% doanh thu thuần.

Ngoài việc xem xét chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế cũng còn phải chú ý cả hiệu quả sử

dụng vốn dưới góc độ sinh lời. Cũng như đã phân tích thì hiệu quả sử dụng vốn

kinh doanh của công ty qua 2 năm giảm xuống hiệu quả sử dụng vốn lưu động

thấp hơn so với vốn cố định nên tỷ suất lợi nhuận cũng thấp hơn.

Ngoài khả năng sinh lời của vốn kinh doanh thì khả năng sinh lời của cố

chủ sở hữu cũng là mối quan tâm của Công ty. Hiệu quả của vốn chủ sở hữu một

mặt phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có thể nói là phụ thuộc vào

trình độ sử dụng vốn. Sang đến năm 2003 k/n sinh lời của cốn chủ sở hữu lại giảm

0,4 đồng nghĩa là nếu vào năm 2003 lại giảm chỉ còn 0,5 đồng lợi nhuận.

Nhìn chung, các chỉ tiêu thể hiện k/n sinh lời của Công ty là không khả

quan nếu không nói là quá thấp ta có thể thấy rõ điều này qua sự so sánh giữa lợi

nhuận các năm với doanh nghiệp và vốn kinh doanh . Nguyên nhân là do giá vốn

hàng bán còn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu và cố kinh doanh lại tăng mạnh.

Một nguyên nhân khác chiếm các chỉ tiêu phản ánh k/n sinh lời năm 2003 chưa

cao là do các khoản chi phí bất thường tăng lên làm lợi nhuận của Công ty giảm

xuống.

Tóm lại qua việc phân tích các hiệu suất tài chính của Công ty đã cho ta

thấy được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, các hệ số hầu hết

thể hiện được một tình hình tài chính chưa thật vững mạnh cũng như sản xuất kinh

doanh chưa thật hiệu quả.

Phần III, Một số nhận xét và kiến nghị nhằm lành mạnh hoá tình hình tài

chính và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty Da giày Hà nội

I. Nhận xét chung về công ty Da giày Hà nội

1. Những ưu điểm của công ty Da giày Hà nội đã đạt được

Thứ nhất : Trong sự phát triển chung của Công ty thì công tác kế toán nói riêng

cũng phát triển rất mạnh, các phòng ban, phân xưởng sản xuất luôn có sự phối hợp

chặt chẽ với phòng kế toán đảm bảo cho công tác hạch toán kế toán được tiến hành

nhịp nhàng, trôi chảy. Việc tổ chức kế toán ở Công ty Da giày Hà nội đã đảm bảo

tính thống nhất về phạm vi, phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa kế

toán và các bộ phận liên quan. Số liệu kế toán được phản ánh trung thực, rõ ràng,

chính xác tình hình hiện có, biến động của từng tài sản hay nguồn vốn của Công

ty. Bên cạnh đó, công tác kế toán đã được cơ giới hoá và ứng dụng được tin học.

Thứ hại : Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, để tồn tại và phát triển

được, Công ty Da Giầy Hà Nội đã phải trải qua những thử thách khó khăn. Đặc

biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, sự năng động, nhạy bén trong công tác quản

lý kinh tế, quản lý sản xuất đã trở thành đòn bảy tích cực thúc đẩy hoạt động sản

xuất kinh doanh phát triển. Cùng với sự phối hợp nhịp nhàng các chủ trưởng đổi

mới, cải cách chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước và các qui luất kinh tế,

công ty cũng từng bước từng bước cải tiến lại cơ cấu tổ chức và quản lý sản xuất,

chủ động mở rộng diện tích nhà xưởng... . Cho nên chỉ trong vòng mấy năm đổi

mới đơn vị đã đạt được những thành quả đáng khích lệ như: Sản lượng không

ngừng tăng trưởng, mở rộng được thị trường ở Châu âu và EU... và công ty đã

không ngừng cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên.

Thứ ba : Trong quá trình phấn đấu và trưởng thành, Công ty đã không ngừng đổi

mới toàn diện về dây chuyền sản xuất, cơ cấu tổ chức và quản lý sản xuất. Việc

đầu tư đổi mới TSCĐ của công ty đã làm cho doanh thu thuần, lợi nhuận, nộp

Ngân sách Nhà nước và thu nhập của cán bộ công nhân viên tăng đáng kể. Bằng

cách đó, Công ty đã tăng năng lực sản xuất, sức cạnh tranh để hội nhập với sự phát

triển chung của nền kinh tế trong khu vực, ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ.

Thứ tư : trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với ngân

hàng qua thời gian dài nên khả năng huy động vốn của Công ty rất tốt.

2./ Những tồn tại của Công ty Da giày Hà nội

Thứ nhất : Về kết cấu tài chính của Công ty

Kết cấu tài chính của công ty hiện nay rất bất hợp lý. Công ty sử dụng rất nhiều

vốn vay để phục vụ sản xuất kinh doanh và xu hướng vay vốn có chiều hướng gia

tăng. Hiện nay hệ số nợ của Công ty đã lên đến 81.5% và nguồn vốn chủ sở hữu

chỉ còn 18.5%. Tuy doanh thu của Công ty năm 2003 tăng lên đáng kể nhưng điều

đó không có nghĩa là sẽ không có những rủi ro tiềm tàng và hệ số nợ càng lớn thì

rủi ro càng tăng. Mặt khác, với một kết cấu tài chính mất cân đối, hoạt động tài

chính của Công ty cũng trở nên căng thẳng dẫn đến sự mất tự chủ trong kinh

doanh. Nếu Công ty có những hợp đồng sản xuất lớn thì việc vay vốn để đảm bảo

hoạt động sản xuất là sẽ rất khó khăn khi mà hệ số nợ đã quá cao như vậy. Bên

cạnh đó, việc vay vốn Ngân hàng quá nhiều sẽ khiến chi phí về sử dụng vốn lớn và

làm giảm lợi nhuận của Công ty, giảm khả năng thanh toán, tăng rủi ro kinh

doanh. Chi phí lãi vay cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hệ số khả năng sinh lời

của Công ty thấp trong khi doanh thu thuần và lãi gộp tăng mạnh. Về việc đảm

bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty còn quá

thấp so với tổng tài sản. Vì vậy, để mở rộng kinh doanh, Công ty đã phải vay nợ

rất nhiều. Trong đó, phần vay ngắn hạn lớn mà nguồn vay dài hạn lại ít nên Công

ty đã phải sử dụng cả vốn vay ngắn hạn để trang trải cho những sử dụng dài hạn

của mình. Điều này làm cho tình hình tài chính của Công ty không lành mạnh.

Nếu các khoản nợ ngắn hạn đến hạn thì việc thanh toán của Công ty sẽ gặp nhiều

khó khăn vì lúc này một số khoản nợ ngắn hạn vẫn đang được sử dụng trong các

mục đích dài hạn. Như vậy, Công ty vẫn phải chịu một rủi ro rất lớn và cần phải

sớm khắc phục .

Thứ hai : Vềsự gia tăng của các khoản nợ phải thu

Có thể thấy khoản nợ phải thu của công ty tăng lên rất mạnh năm 2002 là 26,029

tỷ đến năm 2003 là 45,134 tỷ tăng thêm 72.9% so với năm 2003. Điều này dẫn

đến tình trạng ứ đọng vốn, vốn không được đưa vào sản xuất kinh doanh để sinh

lời dẫn đến vòng quay vốn chậm và khả năng thanh toán giảm .

Thứ ba : Khẳ năng sử dụng vốn

Qua quá trình phân tích cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty là rất thấp.

Tính đến thời điểm năm 2003 một đồng vốn kinh doanh chỉ tạo ra ................ đồng

doanh thu thuần và giảm hơn so với năm 2002. Mức độ đảm bảo nguồn vốn cho

hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như khả năng tự tài trợ của công ty luôn ở

trong tình trạng thiếu . Hiện tượng này phản ánh hoạt động quản lý vốn kém hiệu

quả và làm giảm khẳ năng sinh lời .

Thứ bốn : Về giá vốn hàng bán của Công ty

Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Da giày Hà nội ,

giá vốn hàng bán còn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu thuần, có nghĩa là, giá

thành sản phẩm của Công ty còn cao dẫn đến tình trạng lợi nhuận của Công ty

hiện tại rất thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do một số nguyên vật liệu đầu vào ( đế

giầy ) của Công ty phải nhập khẩu từ nước ngoài với giá đắt.

Thứ năm : Về việc lập và phân tích các báo cáo tài chính

Công ty hiện nay chưa lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đối với một doanh nghiệp

sản xuất lại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thì các nghiệp vụ kinh tế phát

sinh rất nhiều, luồng tiền ra vào doanh nghiệp liên tục và rất lớn. Mặt khác báo cáo

lưu chuyển tiền tệ cung cấp cho người sử dụng thông tin một cơ sở để đánh giá

khả năng của Công ty trong việc tạo ra tiền và các nhu cầu của Công ty trong việc

sử dụng các luồng tiền đó. Chính vì lẽ đó trong hệ thống báo cáo tài chính của

Công ty cần có báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Phụ lục 2) để công khai về sự vận

động của tiền, cụ thể là cần thể hiện được lượng tiền tệ Công ty đã thực thu và

thực chi trong kỳ kế toán.

II. Một số kiến nghị làm lành mạnh hoá tình hình tài chính và nâng cao hiệu

quả kinh doanh tại công ty Da giày Hà nội.

ở công ty Da giày Hà nội cũng như mọi doanh nghiệp khác tình hình tài

chính được coi là lành mạnh khi hoạt động tài chính tuân theo các nguyên tắc,

chuẩn mực chung làm phương hướng cho công tác tài chính của công ty.

Qua quá trình nghiên cưú và phân tích tài chính tại công ty Da giày Hà nội cho

thấy mặc dù công ty liên tục phát triển song bên cạnh đó công ty vẫn còn một số

tồn tại liên quan tới tình hình tài chính của công ty do đó em xin mạnh dạn đưa ra

một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tình hình tài chính tại công ty

Da giày Hà nội.

Thứ nhất : Giảm bớt các khoản phải thu của khách hàng tính đến thời điểm

cuối năm 2003 công ty đã bị chiếm dụng 20.48tỷ chiếm 65,5% tổng tài sản so

với năm 2002 đây là số tiền tương đối lớn mà chủ yếu là do nghiệp vụ bán chịu

tạo ra. Vì vậy để thu hồi được sớm công ty nên có biện pháp giảm giá chiết khấu

cho những khách hàng trả tiền sớm . Hiện nay công ty đang áp dụng biện pháp

giảm giá 5% cho những khách hàng mua với số lượng lớn bằng cách này công ty

chỉ tăng được bán sản phẩm chứ không thúc đẩy việc trả tiền nhanh.Theo ý kiến

của em thì công ty nên chủ động giảm gía thêm 2% cho những khách hàng mua trả

tiền ngay hoặc cụ thể xuất phát từ đặc điểm sản phẩm của công ty có thể giảm giá

2% cho những khách hàng có thể trả tiền từ 20 đến 30 ngày đầu kể từ khi xuất bán,

và có thể khoảng 1.5% cho những khách hàng trả trong vòng từ 1.5 đến 2 tháng.

Việc nhanh chóng thu tiền sẽ làm tăng được hiệu quả sử dụng vốn để đầu tư vào

tái sản xuất vào tái sản xuất. Bên cạnh đó việc nhanh chóng thu hồi được các

khoản phải thu sẽ phần nào giảm được các khoản phải trả .

Thứ 2, Do hệ số nợ của công ty quá cao( 81.5%) nên Công ty cần phải

giảm bớt các khoản phải trả, và nâng cao khả năng thanh toán hoặc tăng lượng vốn

bằng tiền. Nếu như trong tình hình các khoản phải thu ngày càng nhiều như hiện

nay thì khả năng giảm bớt các khoản phải trả là khó. Như đã phân tích nhân tố ảnh

hưởng đến khả năng thanh toán chính là do các khoản phải thu lớn, dẫn đến vay

nợ nhiều và lượng vốn bằng tiền thấp và hệ số khả năng thanh toán là quá thấp

chính vì vậy muốn thu hồi được nhanh các khoản này công ty nên xúc tiến tăng

cường công tác đòi nợ. Công ty có thể cử nhân viên đến tận nơi đến thúc nợ hoặc

gửi giấy đòi nợ, mặt khác công ty bước đầu nên thực hiện việc phân loại khách

hàng mà cụ thể là tìm hiểu tình hình tài chính của đơn vị khách hàng. Việc bán

hàng là quan trọng nhưng khả năng chi trả kém thì công ty sẽ bị chiếm dụng vốn.

Còn nếu là đơn vị có khả năng thanh toán ở mức trung bình thì công ty nên giữ

một lượng cung ứng vừa phải để có tể thúc đẩy tiền rồi mới cung ứng tiếp. Làm

như vậy có thể giúp lượng vốn bằng tiền của công ty tăng lên và cũng từ đó giảm

các khoản phải trả.

Thứ 3: Nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn: Đây có thể coi đây là một giả pháp

quan trọng bởi nếu có sử dụng tốt các nguồn vốn kinh doanh thi hoạt động sản

xuất kinh doanh mới trở nên hiệu quả cho dù lượng vón chiếm dụng được mà

không biết cách sử dụng thì cũng trở nên lãng phí. Muốn âng cao hiệu quả sử dụng

vốn cần chú trọng vào sử dụng vốn cố định và vốn lưu động.Nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn lưu động của công ty. Mặc dù trng hai năm vừa qua lựng vốn lưu đông

của công ty tăng thêm 17.23 tỷ nhưng hiệu quả sử dụng vốn lưu động lại giảm

xuống từ 1.5 vòng xuống còn 1.1 vòng. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu

động công ty cần phải lập bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ để xác định được lượng

tiền cần sử dụng , nhu cầu vốn cần dùng trong từng trường hợp rồi có biện pháp

xắp xếp hợp lý để mang lại hiệu quả hơn , bên cạnh đó để giảm bớt tối đa nguyên

liệu hoặc sản phẩm tồn kho thì công ty cần xác định một cách chính xác nhất,

lượng nguyên vật liệu cần thiết nhất trong kỳ, ở giai đoạn này công ty nên thường

xuyên theo dõi tình hình biến động của vật tư hàng hoá để có quyết định điều

chỉnh kịp thời việc mua nguyên vật liệu sao cho có lợi nhất, sau đó thực hiện việc

quản lý chặt chẽ quá trình tiêu dùng vật tư nguyên vật liệu, giải phóng ngay những

sản phẩm tồn kho để nhanh chóng thu hồi vốn. Ngoài việc xác định lượng vốn sẽ

tiêu dùng trong kỳ , công ty nên giảm lượng vốn còn tồn đọng trong khâu dự trữ

khả năng quay vòng vốn trong kho.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định : Mặc dù trong hai năm qua lượng

vốn cố định của công ty cũng có tăng lên, và hiệu quả sử dụng vốn cố định có

chiều hướng tốt song hiệu quả sử dụng vốn cố định vẫn chưa cao . Vì vậy công ty

cần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn cố định vì vốn cố định đóng một vai

trò rất quan trọng trong tài sản cố định - loại tài sản có giá trị lớn - nên càng phải

có sự quan tâm hơn nữa. Để nâng cao hiệu quả sử dụng, trước tiên công ty nên có

kế hoạch lập và thực hiện tốt dự án đầu tư vào tài sản cố định. Đối với dây truyền

sản xuất giầy công ty nên khai thác hết công suất thiết kế, nâng cao hiệu quả sử

dụng nhằm giảm chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm như là nhận gia công

cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Thực hiện tốt việc bảo dưỡng và

sửa chữa thường xuyên, quản lý chặt chẽ về hiện vật không để hư hỏng mất mát

trước thời hạn

Thứ tư, Về giảm giá vốn hàng bán

Việc giảm giá vốn hàng bán của công ty phụ thuộc rất nhiều vào việc thu mua

nguyên vật liệu đầu vào . Do vậy, các giải pháp để giảm giá vốn hàng bán chủ yếu

tập trung vào giải quyết các vấn đề về nguyên vật liệu như sau :

- Xác định người cung ứng thích hợp . Công ty cần lựa chọn người cung ứng và

nguồn cung ứng thích hợp. Việc cung ứng nguồn nguyên vật liệu và nhà cung

cấp thích hợp , công ty có thể tìm kiêm ở trên Internet ở cả trong và ngoài

nước. Công ty nên tăng tỷ lệ của các nguyên vật liệu trong nước của mình để

giảm bớt chi phí mua nguyên vật liệu . Mục tiêu cần đạt được trong việc lựa

chọn là giá cả thấp, gắn liền với chất lượng của hàng hoá . Đây là một yếu tố

sống còn của một doanh nghiệp kinh doanh .

- Thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường vật tư hàng hoá . Từ đó dự

đoán và điều chỉnh kịp thời việc mua sắm nguyên vật liệu hoặc hàng hoá có

lợi cho công ty trước sự biến động của thị trường .

- Công ty cần có kế hoạch tích cực chuyển hoàn toàn từ phương thức gia công

sang phương thức mua đứt nguyên vật liệu , bán thành phẩm để nâng dần tỷ

trọng hàng bán đứt trong kim ngạch xuất khẩu nhằm tăng giá trị gia tăng của

sản phẩm xuất khẩu.

Thứ 5 : Nâng cao khả năng sinh lời

Muốn tăng khả năng sinh lời thì thông thường có hai biện pháp là tăng doanh

thu và giảm chi phí. Việc tăng doanh thu được thể hiện qua khối lượng bán hay

tăng giá bán . Trong tình hình hiện nay việc tăng giá bán là điều khó thực hiện bởi

làm như vậy công ty sẽ mất khả năng cạnh tranh về giá. Còn việc tăng khối lượng

bán thì ngoài biện pháp chiết khấu giảm giá công ty có thể sử dụng đội ngũ

Marketing tìm kiếm khách hàng và mở rộng thị trường, thật chú trọng về chất

lượng sản phẩm . Còn việc giảm giá như đã trình bày ở trên công ty có thể sử dụng

tiết kiệm vốn, vật tư nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất . Việc tăng khối

lượng sản xuất cũng là một biện pháp để giảm giá vốn hàng bán vì nếu tăng khối

lượng sản phẩm thì chi phí cố định trong mỗi sản phẩm sẽ giảm đi .

Thứ sáu : Cần cải thiện kết cấu tài chính của công ty .

Để cải thiện kết cấu tài chính và thu hút thêm vốn để mở rộng quy mô kinh doanh,

công ty nên tiến hành cổ phần hoá. Việc cổ phần hoá sẽ giúp công ty giảm hệ số

nợ tăng thêm vốn chủ sở hữu làm dịu bớt căng thẳng tài chính trong công ty . Hơn

thế nữa, cổ phần hoá đang là xu thế chung của nền kinh tế nước ta , đồng thời

cũng là một yếu tố để doanh nghiệp hoà mình vào nền kinh tế thế giới . Công ty

không những thu hút được vốn ở bên trong công ty mà còn thu hút được vốn từ

bên ngoài công ty và các nhà đâù tư nước ngoài . Vì vậy nhà nước đang khuyến

khích các doanh nghiệp cổ phần hoá đồng thời việc cổ phần hoá sẽ được hưởng ưu

đãi của nhà nước. Về phía công ty, việc cổ phần hoá không những giúp công ty

tăng khả năng về tài chính mà còn giúp công ty tăng khả năng hoạt động cũng như

tính cạnh tranh của mình trên thị trường. Mặt khác, trong quá trình hoạt động của

công ty cổ phần nếu có nhu cầu thì công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu để mở

rộng hoạt động sản xuất kinh doanh .

Thứ 7, Về việc lập phân tích báo cáo tài chính của công ty

Đây là tài liệu quan trọng có tính hướng ngoại nhằm phản ánh một cách

tổng quát tình hình tài chính của doanh nghiệp cho các đối tượng quan tâm .

Nhưng hiện nay công ty chưa thực hiện việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ . Đây

là một báo cáo rất quan trọng trong hệ thống báo cáo tài chính, vì vậy công ty cần

phải tiến hành nghiên cứu để áp dụng thực hiện báo cáo này .

Trong nền kinh tế thị trường , tiền của doanh nghiệp là một yếu tố rất quan

trọng . ở một thời điểm nhất định, tiền chỉ phản ánh và có ý nghĩa như một hình

thái biểu hiện của tài sản lưu động. Nhưng trong quá trình kinh doanh , sự vận

động của tiền được xem là hình ảnh trung tâm của hoạt động kinh doanh - phản

ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp . Mặt khác thông tin về luồng tiền của

doanh nghiệp rất hữu dụng trong việc sử dụng luồng tiền đó . Chính vì lẽ đó trong

hệ thống báo cáo tài chính công ty cần có bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ để công

khai sự vận động của tiền ,cụ thể là thể hiện lượng tiền tệ đã thực thu, thực chi

trong kỳ kế toán.

Thứ 8, Nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý .

Muốn nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn thì điều cần thiết đầu tiên là

việc quản lý tổ chức tốt mọi khâu trong quá trình sản xuất được tiến hành một

cách thông suốt có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Trên thực tế các giải

pháp đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn có mối quan hệ chặt chẽ và có sự

kết hợp tương hỗ lẫn nhau để đạt được hiệu quả cao chính vì thế mà công ty cần

phải nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý tài chính . Ban lãnh đạo công ty nên

có sự kiểm tra giám sát thường xuyên,có chế độ thưởng phạt hợp lý để khuyến

khích .