Co thắt tâm vị - Phần 3
VIII. CHẨN ĐOÁN:
1.Chẩn đoán xác định: phải dựa vào
+ Triệu chứng lâm sàng: nuốt nghẹn,đau sau xương ức,oẹ...
+ Triệu chứng cận lâm sàng: các triệu chứng X.quang có giá trị chẩn đoán rất
lơn.
2.Chẩn đoán phân biệt:
+ Với các bệnh lý trong lồng ngực: cơn đau tim, U trung thất...
+ Với các bệnh lý khác của thực quản và dạ dày: viêm loét dạ dày,Ung thư
tâm vị,Hẹp môn vị,Ung thư dạ dày,Ung thư thực quản...
VIII. ĐIỀU TRỊ:
1.Điều trị bảo tồn:
+ Chế độ ăn: ăn thức ăn mềm hoặc lỏng,dễ tiêu.Nhai kỹ và nuốt từ từ.Bệnh
nhân nên tự tìm lấy chế độ ăn thích hợp cho mình.
+ Thuốc: cho đến nay vẫn chưa có loại thuốc nào đưa lại hiệu quả điều trị
triệt để cho bệnh co thắt tâm vị.Có thể dùng một số thuốc điều trị triệu chứng
như: Atropin,Nitrit Amyl...để mở cơ tâm vị, các thuốc trấn tĩnh dịu thần kinh
để điều hoà các rối loạn giao cảm, các thuốc chống viêm và giảm xuất tiết
niêm mạc thực quản...
+ Rửa thực quản: có thể rửa hàng ngày vào lúc 2-4 giờ sau khi ăn và trước khi
ngủ để tránh hiện tượng đánh trống ngực và khó thở khi nằm.
+ Nong và thông thực quản: để tránh hiện tượng ứ đọng thức ăn ở thực quản.
2. Điều trị bằng phẫu thuật:
Hiện nay có 3 loại phẫu thuật chính như sau:
+ Các phẫu thuật làm giãn đoạn thực quản hẹp:
- Phẫu thuật Mikulicz (1903): dùng ngón tay đưa qua vết mở của dạ dày lên
tâm vị để nong rộng đoạn thực quản hẹp (hiện nay không dùng nữa).
- Phẫu thuật Wendel (1909): Mổ qua đường ngực,rạch dọc mặt trước đoạn hẹp
thực quản qua tất cả các lớp,sau đó khâu lại theo chiều ngang.Phẫu thuật này
sử dụng khi đoạn hẹp có đường kính nhỏ,các lớp cơ thực quản ở đoạn hẹp bị
teo,không thực hiện phẫu thuật Heller được.
- Phẫu thuật Heller (1914): Rạch dọc thực quản qua hết lớp cơ nhưng không
được làm rách niêm mạc (nhờ đó sau khi rạch,lớp niêm mạc sẽ phồng lên làm
thực quản không bị hẹp nữa).Thường phải rạch quá lên trên chỗ hẹp 4 cm và
xuống dưới tâm vị 2 cm. Đây là phẫu thuật hay được dùng nhất hiện nay.
- Phẫu thuật B.V Petrovsky (1957): tiến hành giống như phẫu thuật Heller
nhưng dùng thêm một vạt cơ hoành để khâu phủ lên tăng cường cho lớp niêm
mạc thực quản bị phồng ra.
+ Các phẫu thuật tạo lỗ thông thực quản giãn và dạ dày:
- Phẫu thuật Heyrovsky (1912): nối thông bên bên giữa thực quản giãn và dạ
dày.
- Phẫu thuật Gondahl (1926): rạch dọc mở tâm vị,sau đó nối thông vào dạ dày.
+ Các phẫu thuật nối thực quản dạ dày:
- Phẫu thuật Rumpel-Kummel: cắt đoạn tâm vị hẹp,sau đó nối thực quản với
phình vị lớn dạ dày theo kiểu tận bên.
- Phẫu thuật Camaro-Lopes (1955): cắt bỏ đoạn thực quản hẹp,sau đó cắt một
phần dạ dày theo chiều dọc và tạo hình phần dạ dày này thành một hình ống
để đưa lên thay cho đoạn thực quản bị cắt bỏ.