intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Công tác xã hội với trẻ em và gia đình - Phần 2

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

379
lượt xem
130
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công tác xã hội với trẻ em và gia đình là một bộ phận trong ngành công tác xã hội chuyên nghiệp. Nó được hình thành trong bối cảnh mạng lưới phát triển của hệ thống an sinh xã hội nói chung và an sinh nhi đồng và gia đình nói riêng. Môn học bao gồm các nội dung chính như: Phần 1: Khái niệm và sự hình thành công tác xã hội với trẻ em và gia đình, phần 2: Bối cảnh công tác xã hội với trẻ em, phần 3: Tiến trình phát triển tuổi thơ, phần 4: Trẻ em, gia đình và các nhu cầu đặc biệt, phần 5: Công tác xã hội với gia đình, phần 6: Tiến trình công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Công tác xã hội với trẻ em và gia đình - Phần 2

  1. 11 http://www.ebook.edu.vn PHẦN II♣ BỐI CẢNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM 1. CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ ĐẠO LUẬT TRẺ EM Khởi đầu từ thế kỷ 19 và được tăng cường vào thế kỷ 20, quyền trẻ em được bảo vệ ngày càng được làm sáng tỏ, mang tính cưỡng chế. Trong những năm qua, quan điểm bảo vệ này đã được bổ sung bằng sự thúc đẩy quyền trẻ em để trẻ tham gia vào những quyết định ảnh hưởng đến đời sống của trẻ. Trong câu nói nổi tiếng đương thời của nữ thẩm phán Butler Sloss, có một sự chuyển hướng trong việc đối xử với trẻ như “một con người chứ không phải là đối tượng của sự quan tâm”. Mục đích của chương này là đặt thực hành công tác xã hội hiện tại trong bối cảnh luật pháp và lịch sử. Chương này có 2 phần: 1. Tìm hiểu sự phát triển của chính sách đối với trẻ em và quyền trẻ em trên 2 thế kỷ qua, xem xét công tác xã hội với trẻ em trong bối cảnh của khuynh hướng chính sách rộng lớn hơn. 2. Những hiểu biết đương đại về quyền trẻ em làm nền tảng cho công tác xã hội với trẻ em. 1.1. Trẻ em và quyền trẻ em : ♣ D ựa theo”Social Work with children” c ủa Marian Brandon, Gillian Schofield v à Liz Trinder, Mac. Press LTD, 1998
  2. 12 http://www.ebook.edu.vn Trẻ em có nghĩa là gì, tuổi thơ là gì, đều được hình thành do xã hội, và mỗi xã hội hình thành những ý nghĩa này một cách khác nhau. Mặc dù các sự kiện sinh học cơ bản của đời người có thay đổi chút ít theo thời gian nhưng không có gì cố định trong cách mà xã hội ứng phó với những khác biệt về sinh học này. Theo James và Prout (1990) : Sự non nớt của trẻ em là một sự kiện sinh học của đời người nhưng những cách hiểu biết sự non nớt này và làm cho nó quan trọng lại là một sự kiện văn hóa. Sự giải thích của Disneyland Western của người da trắng về tuổi thơ an toàn khác với thực trạng của từng quốc gia . Mọi xã hội đều có những tư tưởng và luật lệ khác nhau về thời gian của tuổi thơ. Các xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào việc lấy các quyết định về chúng đều khác nhau. Có một số xã hội không bao giờ bằng lòng cho trẻ tham gia. Vì thế sự hiểu biết về sự hình thành tuổi thơ cũng khác nhau, tạo ra những mong đợi và diễn dịch khác nhau về hành vi của trẻ em. Trong quá khứ, các nhà sử học về tuổi thơ đã tranh luận mạnh mẽ về ý nghĩa của tuổi thơ. Nhà sử học pháp Philippe Aries khởi xướng cuộc tranh luận trong những năm 1960 bằng cách tuyên bố rằng tình trạng tách biệt của tuổi thơ không thực sự tồn tại trước thế kỷ 17, mà trẻ em được đối xử như người lớn thu nhỏ. Trên thực tế, có thể có nhiều dạng tuổi thơ, với những khác biệt ở ý nghĩa thế nào là trẻ em giữa các tầng lớp và khu vực. Các thái độ mâu thuẫn đối với trẻ em vẫn còn phổ biến, trẻ em lần lượt được xem như những thiên thần nhỏ ngây thơ và những quỷ nhỏ từ bản chất có thể làm những điều tệ hại nhất cho đến khi được người lớn xã hội hóa đầy đủ. Việc thay đổi ý nghĩa của tuổi thơ, đôi khi mâu thuẫn, rõ ràng trong tài liệu xã hội học và lịch sử được phản ảnh trong sự phát triển chính sách chăm sóc trẻ em, vừa phản ảnh vừa đưa ra những giải thích khác nhau về tuổi thơ. Sự hiểu biết về quyền trẻ em có liên quan chặt chẽ tới các khuynh hướng tri thức và chính trị rộng lớn hơn. Thí dụ như một trong những chủ đề quan trọng nhất của thời đại là tăng quyền lực,
  3. 13 http://www.ebook.edu.vn và điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự diễn dịch đương đại về quyền trẻ em như quyền tham gia. Trong phần sau đây nhân viên xã hội sẽ xem xét hai yếu tố này - bối cảnh chính trị xã hội và những tư tưởng khác nhau về trẻ em và tuổi thơ - đã tạo ra những hiểu biết khác nhau về quyền trẻ em trong luật pháp và thực tế. 1.2. Quan điểm ban đầu: Trẻ lao động tự do và cứu trợ trẻ em Ở thế kỷ 19, một khái niệm phổ biến và giống nhau hơn về tuổi thơ đã hình thành. Lúc đó, số trẻ em đã đóng góp vào lợi tức gia đình thông qua việc trả lương và không trả lương. Trái lại, tuổi thơ “lý tưởng” đã hình thành từ từ trên nền tảng trên “lý tưởng trong khuôn khổ” của gia đình trung lưu đầu thế kỷ thứ 19 (Hendrick 1990). Lý tưởng này là thời tuổi thơ mà trẻ em được xem như khác với người lớn về tính chất và bản chất vì nếu không trẻ em có thể dễ dàng trở nên hung bạo, và nguy hiểm nếu như chúng được phép trở thành như người lớn và bước vào thế giới của người lớn. Khi thế kỷ thứ 19 đã phát triển, một loạt các biện pháp bảo vệ trẻ em được đưa ra để trả lại cho trẻ em sự phụ thuộc và đưa chúng ra khỏi thế giới công việc của người lớn sang thế giới trường học và gia đình của đứa trẻ. Luật pháp kiểm soát lao động trẻ em và việc giới thiệu giáo dục phổ cập ở thế kỷ thứ 19 đã nhận ra nhu cầu cần được bảo vệ của trẻ và hiểu rằng trẻ em có quyền đó. Học tập làm cho mối liên kết giữa tuổi thơ và lao động yếu đi. Vì trường học dần dần chiếm chỗ của lao động và học tập chính quy trở thành bắt buộc (khoảng 1900 khắp Châu Âu), thái độ về vị trí và vai trò của trẻ em cũng thay đổi. Tuổi thơ có thể kéo dài lâu hơn và trẻ em có thể trở nên phụ thuộc hơn. Lần đầu tiên đối với các bậc cha mẹ là có thể không xem trẻ là người đóng góp cho gia đình và tài sản kinh tế. Lúc bấy giờ hàng hóa được mong đợi là sẽ từ cha mẹ đến con cái thay vì từ con cái đến cha mẹ.
  4. 14 http://www.ebook.edu.vn Khi các tổ chức công tác xã hội / an sinh nhi đồng đang phát triển thì mối quan tâm nổi bật là “cứu vớt” trẻ em để trẻ em có thể hưởng được tuổi thơ. Tất cả các hội thiện nguyện, như TS. Barnardos đã dành hết thời gian cho việc cứu trẻ em ra khỏi môi trường xấu, ảnh hưởng xấu của người lớn và cha mẹ không tốt và cung ứng cho chúng một sự khởi đầu thuận lợi nơi mà chúng đáng được gọi là trẻ em (Cleaver và Fretrean 1995 ; Colton và các đồng tác giả 1995). Mục đích của việc cứu giúp trẻ em là tái xã hội hóa trẻ em trong tầng lớp lao động ra khỏi tình trạng suy đồi về mặt đạo đức. Mặc dù thế kỷ 19 đã chứng kiến một sự chuyển biến quan trọng trong tư tưởng về trẻ em và tuổi thơ nhưng mức độ thúc đẩy chuyển biến còn hạn chế. Về chính sách chăm sóc trẻ, thế kỷ thứ 19 được mô tả là tốt nhất bằng cái mà Lorraine Fox Harding (1991) gọi là “quan điểm gia trưởng và tự do”, dựa vào sự bảo đảm tính riêng tư của gia đình và sự can thiệp tối thiểu của nhà nước vào gia đình. Từ quan điểm này đã có một chỗ nhỏ cho chính sách an sinh : tất cả trách nhiệm trao cho gia đình. Cleaver và Fretrean (1995) tranh luận rằng sự can thiệp phần lớn thu hẹp trong những tình huống bên ngoài gia đình. Vai trò của nhà nước trong chăm sóc trẻ bị chi phối bởi Luật người nghèo đã minh họa cho giá trị tự do của sự can thiệp tối thiểu, điều này nhằm giảm chi phí và cũng nhằm gìn giữ sự thiêng liêng của đời sống gia đình. Khi sự can thiệp xảy ra là nó nhằm cứu giúp trẻ em khỏi sự khốn đốn và nghèo khó tuyệt đối (Cleaver và Fretrean 1995). Mãi cho đến năm 1889, Hội quốc gia phòng ngừa bạo lực đối với trẻ em được thành lập thì gia đình và những điều vụn vặt riêng tư thuộc về mối quan hệ gia đình có thể là mục tiêu của sự xem xét phần nào. Trong gia đình, các quyết định của nội bộ gia đình về nuôi nấng trẻ v.v... là trách nhiệm của những thành viên có quyền lực nhất trong gia đình, đó là cha mẹ, nhất là người cha. Thật ra, mãi cho tới 1886 lần đầu tiên luật pháp Anh đặt sự an sinh của đứa trẻ lên hàng đầu, trước sự thực hiện và mong ước của cha mẹ (Hoggest 1993). Cho đến cuối thế kỷ 19, đời sống đối với đa số trẻ em rất khác với trẻ em trước đó. Sự phát triển chính trị và khoa học, y khoa đã đảm bảo cuộc sống đối với phần lớn trẻ em chứ không chỉ đấu tranh cho sự sống còn. Năm 1901 số trẻ em chết
  5. 15 http://www.ebook.edu.vn là 161 trên 1000 đứa trẻ sinh ra và giữa 1928 và 1931 thì hạ xuống còn 66 trên 1000 trẻ sinh ra (Hardymart 1983). 2. CHẾ ĐỘ GIA TRƯỞNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CỦA PHƯƠNG TÂY Khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở phương Tây đã có một thay đổi lớn, dù không hoàn toàn, từ các cách tiếp cận tự do đến an sinh nhi đồng với một khái niệm mới về tuổi thơ kèm theo. Về chính sách chăm sóc trẻ, Fox Harding (1991) gọi là “chế độ gia trưởng của quốc gia và bảo vệ trẻ em” đã đặt cơ sở trên sự can thiệp rộng lớn của nhà nước vào gia đình nhằm bảo vệ trẻ em khỏi sự thiếu chăm sóc của cha mẹ (như các nhà chuyên nghiệp đã giải thích). Xây dựng trên sự phát triển của thế kỷ 19, tuổi thơ được xem như một giai đoạn riêng biệt và dễ bị tổn thương trong đời sống, cần đến sự bảo vệ và quyết định của người lớn. Một quan điểm chung về trẻ em là trẻ có khả năng hạn chế về tự quyết và lấy quyết định. Sự khác biệt chủ yếu trong thế kỷ 20 là sự tham gia của các nhân viên xã hội và những nhà chuyên môn khác, ngày càng ở bên cạnh các bậc cha mẹ như những người quyết định và bảo vệ của trẻ em, vì nhà nước và các chuyên gia chăm sóc trẻ em ngày càng đòi quyền chỉnh đốn gia đình. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học xã hội và y khoa đã cung ứng kiến thức an sinh nhi đồng để làm nền tảng cho công tác này. Các nhà xã hội học, nhất là những người từ ngành tâm lý trẻ em đang nổi lên, càng ngày càng tỏ ra quan trọng trong việc giải thích những hạn chế của đời sống gia đình “bình thường” và tuổi thơ “bình thường”. Bất chấp nhiều sự bất đồng ý kiến, tác phẩm của Burt, Isaacs, Klein, Winnicott và Bowlby rất có ý nghĩa vì lần đầu tiên làm nổi bật sự quan trọng của đời sống tâm lý của đứa trẻ và vai trò của gia đình và cha mẹ (Hendrick 1990). Đạo luật trẻ em 1948 đã quy định bổn phận của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy những lợi ích tốt nhất cho trẻ em và cung ứng những “cơ hội để phát triển nhân cách và khả năng của trẻ”. Công tác của Sở trẻ em đã được thành lập, chuyển đổi từ dịch vụ cứu vớt, chửa trị của thế kỷ 19 sang sự cổ vũ gần như vô hạn
  6. 16 http://www.ebook.edu.vn về việc thúc đẩy sự an sinh của trẻ em bằng cách làm việc với gia đình như một tổng thể (Colton và các đồng tác giả 1995 : 7). Khái niệm “phòng ngừa“ đã được hình thành trong thập niên 1950 đã được đẩy mạnh qua công tác xã hội cá nhân, đã chứng tỏ rằng hầu hết các Sở Trẻ em đang cố gắng ngăn cản việc nhận trẻ em vào nhà chăm sóc đặc biệt (Packman 1993). Đạo luật Thiếu niên và trẻ em 1963 giao cho chính quyền địa phương bổn phận giúp đỡ gia đình của những trẻ em không ở trong nhà chăm sóc đặc biệt của chính quyền địa phương. 2.1. Sự tham gia và phương thức tham gia Thập niên 1970 có lẽ là thời kỳ cao độ chế độ gia trưởng của nhà nước trong an sinh nhi đồng. Từ lúc đó, công tác xã hội an sinh nói chung đã phải tự định nghĩa lại nhằm đáp ứng những thách thức và phê phán từ bên trong lẫn bên ngoài. Sự phát triển lũy tiến trong chi phí cộng đồng bị cắt giảm bất ngờ do khủng hoảng kinh tế giữa thập niên 1970. Từ đó trở đi an sinh nhi đồng được cơ cấu trong bối cảnh thiếu thốn về mặt kinh tế.. Quyền lực của chế độ an sinh và chủ nghĩa tập thể đã được thiết lập sau thế chiến thứ 2 đã bị đẩy lùi bởi đợt thủy triều của chủ nghĩa tự do và cá nhân mới tràn tới. Càng ngày sự can thiệp giúp đỡ càng quan liêu và áp đặt. Quyền được tranh luận ngày càng nhiều để ủng hộ cho tự do cá nhân và gia đình. Công tác xã hội với trẻ em trên 20 năm qua được nổi bật nhờ tăng cường tập trung vào chi tiết thủ tục chặt chẽ, tìm hiểu chấn thương hay ngược đãi là chủ đề chính. Từ những cái chết của trẻ do bạo hành trong gia đình đã đưa đến những cuộc tranh luận khởi đầu cho sự phê phán về công tác xã hội “hỗ trợ”. Ngược đãi trẻ em được “nhận diện, tiên đoán và ngăn ngừa” (Parton 1991 : 58) theo phương cách khoa học hơn. Đồng thời, phương hướng của phần lớn công tác với trẻ em được chuyển từ công tác phòng ngừa trẻ em tại gia đình sang việc đảm bảo an toàn cho “cha mẹ về mặt tâm lý”. Cuộc điều tra Cleveland khi đánh giá sự can thiệp của nhà chuyên môn trong trường hợp nghi ngờ có sự lạm dụng tình dục trẻ em không giống như cuộc điều tra
  7. 17 http://www.ebook.edu.vn về cái chết của trẻ, qua đó người ta cho rằng hoạt động của nhà chuyên môn quá nhiệt tình và kết quả là sự than phiền của cha mẹ. Trẻ em cần được bảo vệ khi có sự can thiệp sai lầm. Sự bảo vệ trẻ em phải được tiến hành theo cách thức không vi phạm quyền của cha mẹ và nếu không thì những đau buồn không cần thiết sẽ đến với chính đứa trẻ mà nhân viên xã hội muốn giúp đỡ. (Minister of State Tong Newton, Parton 1991 : 114). Báo cáo Cleverland về sau đưa đến sự thay đổi quan trọng trong công tác đối tác với cha mẹ. Cư xử với trẻ em “như một con người” thay vì như là một “đối tượng của sự quan tâm”, sự hiểu biết chủ quan của đứa trẻ về thế giới của riêng trẻ trước tiên phải được thăm dò và được hiểu rõ. An sinh của trẻ em không thể chỉ được thúc đẩy bằng sự ứng dụng tiến trình khoa học và sự đánh giá. Trái ngược với bối cảnh mà nhân viên xã hội hiểu biết về sự xuất hiện của hai quan điểm chăm sóc trẻ em khác được nhận ra bởi Fox Harding, cả hai đều nhấn mạnh sự tham gia. Giống như quan điểm tự do bỏ mặc, “quan điểm quyền cha mẹ” coi trọng sự toàn vẹn của ranh giới gia đình và chống lại sự can thiệp bên ngoài vào các vấn đề của gia đình. Không giống quan điểm tự do, quan điểm này nhấn mạnh ở vai trò giúp đỡ tiềm ẩn của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho cha mẹ thực hiện vai trò của họ. Trọng tâm đặt vào đơn vị gia đình như một tổng thể hơn là phần chia nó ra nhiều thành viên hình thành gia đình. Sự đòi lại quyền quyết định cho cha mẹ từ các nhân viên chuyên nghiệp được coi trọng hơn sự tôn trọng tính độc lập của đứa trẻ. Quan điểm thứ 4 là một quan điểm hiểu biết nhiều về cuộc tranh cãi đương thời về quyền trẻ em được Fox Harding gọi là “quyền của trẻ em và sự giải phóng của trẻ em”. Trọng tâm chuyển đổi từ nhu cầu của trẻ em cần được sự bảo vệ của cha mẹ sang quyền trẻ em tham gia và độc lập. Quan điểm này nói lên một khái niệm tuổi thơ trái ngược. Trẻ em được xem như là nhóm bị áp bức, bị phân biệt đối xử (một cách sai lầm) trên cơ sở tuổi tác. Thay vào đó, các tác giả trong quan điểm này nhấn mạnh đến sự hợp lý, khả năng và sức mạnh của trẻ em và giảm thiểu sự khác
  8. 18 http://www.ebook.edu.vn biệt giữa trẻ em và người lớn hoặc sự lệ thuộc và sự dễ bị tổn thương của trẻ em. Ở đây trẻ em trở thành tác nhân độc lập, với những lợi ích riêng biệt trong gia đình. Trẻ em không thể và không cần dựa vào cha mẹ hay nhân viên chuyên nghiệp để hành động vì lợi ích tốt nhất của chúng mà phải nói và hành động vì chính trẻ. Ở cấp độ chính sách và thực hiện, quan điểm quyền trẻ em càng ngày rõ ràng trong thập niên 1980. Một loạt các phát triển dẫn đến trẻ em được có quyền như là con người đúng nghĩa. Hệ thống “người giám hộ” đã cung ứng một nhân viên làm việc độc lập nhân danh trẻ em làm việc ở tòa án. Do vậy trẻ em được công nhận như những con người độc lập với những quyền lợi của mình cần đến sự đại diện và tư vấn. Những kỹ thuật trị liệu bằng vui chơi và xây dựng mối quan hệ được phổ biến qua các tài liệu như bộ tài liệu giảng dạy BAAF “Tiếp xúc với trẻ em” (1984) và qua các tác giả như Fahlberg (1988) và Oaklander (1978). Mục đích của những tài liệu này là khuyến khích nhân viên đóng vai trò tích cực nhiều hơn nữa trong việc giúp đỡ trẻ em bày tỏ những cảm xúc bên trong của chúng (Aldgate và Simmonds 1988 : 14). Trong khi Những quyết định của Công tác xã hội trong chăm sóc trẻ em không có chỗ đặc biệt cho quan điểm của trẻ em vào năm 1985 thì 3 năm sau đó một hướng dẫn Đánh giá bảo vệ trẻ em tiếp theo của sở y tế Bảo vệ trẻ em : sách hướng dẫn cho nhân viên xã hội thực hiện sự đánh giá toàn diện (1988) có nhiều tuyên bố rõ ràng hơn về nhu cầu tư vấn trẻ em và về quyền của chúng : Trẻ em và thanh thiếu niên đến với nghề nghiệp giúp đỡ vì họ và gia đình họ trải qua những khó khăn, họ có quyền nhận sự can thiệp và giúp đỡ nhạy bén. Họ có quyền được tư vấn và quan điểm của họ phải được quan tâm, cũng như tuổi tác, sự hiểu biết của họ về những vấn đề và những quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của họ. (Sở y tế : 1988 : 9). Tuy nhiên trong thực hiện, đa số nhân viên xã hội đã dành ít thời gian với trẻ em. Trong khi một số nhân viên xã hội thời trước Đạo luật trẻ em 1989 đã thực hành những kỹ năng công tác xã hội cá nhân với trẻ em thì hầu hết các nhân viên xã hội hiếm khi nhìn trẻ em như chúng nó là. Quyết định của công tác xã hội trong chăm
  9. 19 http://www.ebook.edu.vn sóc trẻ (HMSO 1985) đã bình luận rằng nhân viên xã hội dường như thiếu thời gian và kỹ năng để làm việc trực tiếp với trẻ em và công việc này được dành cho những người khác : Hầu như không có chứng cớ rõ ràng để thấy rằng nhân viên xã hội tham gia nhiều trong tiếp xúc trực tiếp với trẻ em ... Những người chăm sóc ban đầu của trẻ em, cha mẹ nuôi hộ và nhân viên ở các trung tâm nuôi dưỡng được xem là có nhiều cơ hội hơn. Trường hợp nào cần đến những kỹ năng này thì nhân viên xã hội thường chuyển đến cho một nhà chuyên môn có hiểu biết về phát triển trẻ em, sức khỏe hay giáo dục (văn phòng Trẻ em quốc gia, trong HMSO 1985 : 14). Do vậy, cho tới thập niên 1980 một loạt vấn đề và mối quan tâm đã ảnh hưởng đến chính sách chăm sóc trẻ em và công tác xã hội với trẻ em. Một loạt những tư tưởng đã hình thành về cách thức làm thế nào để có cách bảo vệ trẻ em tốt nhất cùng lúc với những nguồn lực chịu sức ép nghiêm trọng và nhân viên xã hội chịu sự giám sát kỹ càng của quần chúng. Tiến đến cuối thế kỷ, sáng kiến về quyền của cha mẹ và quyền của trẻ em xuất hiện không mấy dễ dàng cùng với sự nhấn mạnh về thủ tục hóa trong công tác xã hội. 2.2. Về quyền trẻ em Trong khoảng thời gian của thập niên 1970 và 1980, đã có một sự phát triển đầy ý nghĩa về quyền trẻ em. Ở cấp độ lý thuyết, các tác giả bắt đầu xem xét khái niệm quyền của trẻ em : ở cấp độ chính quyền hai sự triển khai quyền trẻ em có nhiều ý nghĩa vào cuối thập niên 1980 là Công Ước Quốc Tế và Quyền Trẻ em và Đạo Luật Trẻ em 1989. Thảo luận về quyền trẻ em có vẻ bị mắc trong vòng lẩn quẩn : giữa trẻ em có khả năng, không có khả năng, giữa sự giải phóng và chế độ gia trưởng, giữa sự độc lập và an sinh, giữa người giải phóng và người chăm sóc. Đối với “những người giải
  10. 20 http://www.ebook.edu.vn phóng”, sự khác biệt giữa người lớn và trẻ em ít được nói ra, kết quả dẫn đến là trẻ em cần phải được đối xử tương tự như người lớn. Tự quyết định là tất cả. Đối với “người chăm sóc” trẻ em được xem là khác với người lớn về tính chất. Trẻ có ít khả năng và dễ bị tổn thương hơn người lớn và do vậy đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt và các quyết định được những người lớn chăm sóc trẻ đưa ra. (Archad 1933 : 55). Trẻ em nhiều khi được định nghĩa và đối xử như thể chúng là người lớn thu nhỏ chứ không có những đặc điểm trẻ em. Sự phức tạp và nhạy cảm về phát triển tình cảm, thể chất và trí tuệ trở nên đơn giản hóa trong nhận thức và việc hướng dẫn lấy quyết định theo kiểu thông thường (King và Piper 1995 : 144). Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tuổi thơ ngày càng nhận thức sự phức tạp về đời sống của trẻ em và mức độ trẻ em nhìn cũng như được nhìn về thế giới xã hội của chúng (xem thí dụ James và Prout 1996). Trẻ em khác nhau về tuổi tác, giới, chủng tộc và khuyết tật. Khả năng của trẻ em để định hình thế giới của chúng cũng khác nhau tùy thuộc vào tình huống mà đứa trẻ sống. Cơ sở của trẻ em khác nhau về thế giới vui chơi theo kiểu trẻ bị áp đặt và có cái nhìn theo đời sống trong lớp học hay trong gia đình (James và Prout 1996). Tuy nhiên, ngay cả trong gia đình cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy những mong đợi khác nhau của cha mẹ về trẻ em cùng lứa tuổi tạo ra nhiều mức độ độc lập rất khác nhau ở trẻ em (Solberg 1990). 2.3. Các thuyết về quyền hội nhập Hai thuyết nổi tiếng về quyền trẻ em thuộc về Michael Fretrean (1983) và John Eekelaar (1986). Dù có những điểm trùng lắp đáng kể giữa hai thuyết nhưng có thể nêu ra những nét đại cương của cả hai lý thuyết này vì chúng đặc biệt có ích cho việc hình thành những khái niệm cơ bản về quyền. a. Lý thuyết về chủ nghĩa kiểm soát người dân theo kiểu gia trưởng tự do của Michael Fretrean
  11. 21 http://www.ebook.edu.vn Fretrean ủng hộ tầm quan trọng của việc nghĩ đến trẻ em như những người có quyền sở hữu quyền của mình hơn là vì yêu thương hay từ thiện. Lý thuyết về quyền của ông được xây dựng trên việc đảm bảo rằng trẻ em cần phải tham gia trong việc lấy quyết định càng nhiều càng tốt, kết hợp với chủ nghĩa quyền gia trưởng tự do, dựa trên cơ sở. Với tư cách là trẻ em, loại hành động hay hành vi nào nhân viên xã hội mong muốn được bảo vệ dựa trên giả định rằng nhân viên xã hội muốn thành người lớn độc lập một cách hợp lý và có khả năng quyết định về những hệ thống kết quả như một con người có lý trí và tự do. Nhân viên xã hội sẽ chọn những nguyên tắc khuyến khích trẻ em trở thành người lớn độc lập. (Fretrean 1983 : 57). Trên cơ sở này, Fretrean đưa ra 4 loại quyền : • Quyền an sinh. Đây là loại quyền rõ ràng nhất và chỉ ra một loạt những đòi hỏi “tuổi thơ hạnh phúc” như đã được định ra trong Bản tuyên bố Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em (nay được thay bằng Công ước quốc tế). Những đòi hỏi này bao gồm quyền được học hành, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe, và không phân biệt đối xử. • Quyền được bảo vệ. Trái với quyền an sinh, loại thứ hai này liên quan tới việc bảo vệ trẻ em khỏi sự nguy hại, chẳng hạn như ngược đãi, thiếu chăm sóc và bóc lột, lạm dụng. Quyền được bảo vệ là quyền cho trẻ em được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc tối thiểu. Quyền này dựa trên giả định rằng trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương cần sự bảo vệ của cha mẹ hoặc của nhà nước nếu cha mẹ không làm được. • Quyền được đối xử như người lớn. Fretrean thuyết phục rằng sự đối xử khác nhau giữa trẻ em và người lớn dựa trên sự khác biệt tuyệt đối về tuổi tác là phân
  12. 22 http://www.ebook.edu.vn biệt đối xử. Ông cho rằng trẻ em cần được đối xử như người lớn dựa trên nền tảng công bằng xã hội. Ông không theo lập trường chủ nghĩa giải phóng của các tác giả thập niên 1970, những người đã hủy bỏ tất cả sự phân biệt giữa trẻ em và người lớn. Thay vào đó ông cho rằng sự khác biệt về tuổi tác cần phải được xem xét liên tục, những quyết định về khả năng của từng cá nhân trẻ phải được thực hiện từng trường hợp một. Như nhân viên xã hội sẽ thấy, đây là cách tiếp cận tương tự với sự hình thành khả năng theo Gillick đã được phát triển trên thập kỷ qua. • Quyền chống lại cha mẹ. Loại quyền thứ tư này đặt cha mẹ vào vai trò của người đại diện cho trẻ em. Fretrean cho rằng trong những quyết định chính yếu thì quyết định của cha mẹ cần có quyền lực và ảnh hưởng nhưng chỉ khi nó phù hợp với sự lượng giá “khách quan” xem những quyết định đó có ngang hàng với “sản phẩm xã hội ban đầu” của trẻ em hay không, đó là những gì mà bất cứ một người nào có lý trí cũng muốn theo đuổi. Nếu không thì một cơ quan bên ngoài phải thay thế vai trò đại diện của cha mẹ. b. Lý thuyết về quyền trẻ em của John Eekelaar Cũng như Fretrean, John Eekelaar (1986) hình thành một khuôn mẫu về quyền dựa trên việc suy đoán “nhìn lại cái gì đứa trẻ đã từng muốn khi nó đạt tới vị trí trưởng thành” (1981 : 170). Eekelaar nhận diện 3 loại quyền lợi làm nền tảng cho quyền : • Quyền lợi cơ bản nói đến tiêu chuẩn chăm sóc tối thiểu (thể chất, tình cảm, trí tuệ). Cha mẹ / người chăm sóc được yêu cầu phòng ngừa để tránh những nguy hại đến sự phát triển của trẻ em. Nơi nào cha mẹ không hoàn thành được trách nhiệm của mình, thí dụ trong những trường hợp ngược đãi hay bỏ bê, thì nhà nước có thể can thiệp.
  13. 23 http://www.ebook.edu.vn • Quyền lợi phát triển đòi hỏi cha mẹ và nhà nước đảm bảo rằng tất cả mọi trẻ em đều có cơ hội như nhau để tiếp cận tối đa với những nguồn lực sẵn có trong thời tuổi thơ. • Quyền độc lập nói đến “sự tự do lựa chọn cách sống và quan hệ xã hội theo khuynh hướng không bị kiểm soát bởi uy quyền của thế giới người lớn, dù đó là cha mẹ hay cơ sở chăm sóc”. Eekelaar cho rằng quyền độc lập dù quan trọng cũng phải đi sau quyền phát triển và cơ bản dựa trên cơ sở là trẻ em, khi chúng là người lớn, sẽ ủng hộ quyền căn bản và phát triển trước quyền độc lập nếu có sự xung đột, mâu thuẫn giữa các quyền. Khuôn mẫu quyền trẻ em được hình thành do Fretrean và Eekelaar thật thú vị bởi vì họ nhấn mạnh đến loại quyền mà trẻ em được hưởng. Trẻ em có quyền độc lập và tham gia cũng như phát triển và bảo vệ. Cả hai đều nhận ra quyền độc lập và những quyền khác có thể đụng nhau và họ cho rằng trong những trường hợp như thế sự quyết định của người lớn về điều tốt nhất cho trẻ sẽ có giá trị hơn ước muốn của trẻ. Như nhân viên xã hội sẽ thấy Công ước của Liên hiệp quốc và Đạo luật trẻ em 1989 sẽ lại cho trẻ em “quyền an sinh” và quyền tham gia, sau cùng thì quyền an sinh là quyền có quyền lực và ảnh hưởng nhất. c. Công ước của Liên Hiệp Quốc Sau 10 năm bàn thảo và cân nhắc, Công ước được Đại Hội Đồng Liên hiệp Quốc chấp thuận vào ngày 20 tháng 10 năm 1989. Cho đến nay, Công ước đã được phê chuẩn bởi hơn 150 quốc gia trên khắp thế giới ; đó là một Công ước quốc tế được phê chuẩn nhanh nhất và rộng rãi nhất. Công ước gồm 41 điều khoản về các vấn đề ảnh hưởng đến trẻ em. Những quyền này được chia thành 4 nhóm : quyền được chăm sóc hay bảo vệ, tham gia, chống phân biệt đối xử và quyền được phát triển tốt nhất. (Hammarberg 1995). d. Quyền an sinh/được bảo vệ
  14. 24 http://www.ebook.edu.vn Điều khoản 3 của Công ước của Liên Hiệp quốc quy định quyền an sinh và được bảo vệ của trẻ em. Điều khoản có hai thành phần chủ yếu. Thành phần thứ nhất nhấn mạnh rằng nhà nước và các định chế tư nhân phải có sự quan tâm trước tiên vì lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác của họ. Thành phần thứ hai là nhà nước đảm bảo rằng trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đầy đủ, quy định có liên quan tới quyền và bổn phận của người chăm sóc trẻ. Điều khoản 19 đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp về pháp luật, quản trị, giáo dục và xã hội thích hợp để bảo vệ trẻ em chống lại sự bóc lột lạm dụng, ngược đãi, bỏ bê của cha mẹ hay người chăm sóc. Nó cũng đòi hỏi nhà nước phải có các thủ tục hữu hiệu để ngăn ngừa, nhận diện, điều tra và trị liệu những trường hợp nêu trên. e. Quyền được phát triển tốt nhất Công ước của Liên Hiệp Quốc còn đi xa hơn những nỗ lực bảo vệ trẻ em, điều khoảng 6.2 đòi hỏi nhà nước thúc đẩy sự phát triển tốt nhất của trẻ em : Các quốc gia thành viên phải đảm bảo đến mức tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em. Công ước nhận ra rằng trẻ em được chăm sóc tốt nhất trong gia đình của chúng (Điều khoản 5 và 18) nhưng đòi hỏi nhà nước phải cung cấp “sự hỗ trợ thích hợp” cho người chăm sóc và phát triển các dịch vụ chăm sóc trẻ em (Điều khoản 18.2). Sự bất bình đẳng to lớn trong an sinh vẫn còn tiếp tục giữa các nước nghèo và nước giàu cho nên không phải nước nào cũng sẽ có thể cung ứng được các chính sách xã hội hỗ trợ cho trẻ em ; những gì điều khoản 4 đòi hỏi là các chính phủ chịu trách nhiệm có những biện pháp để thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em ở “mức tối đa của các tài nguyên sẵn có của họ”. f. Quyền tham gia.
  15. 25 http://www.ebook.edu.vn Công ước Liên Hiệp Quốc thúc đẩy mạnh mẽ quyền trẻ em tham gia vào việc lấy quyết định, dù rằng mức độ bày tỏ quan điểm của trẻ sẽ thay đổi tùy theo độ tuổi và sự trưởng thành của trẻ. Điều khoản 12 nói rằng : Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền bày tỏ những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề có tác động đến trẻ em, những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng phù hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của trẻ em. Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra một loạt quyền riêng tư khác, các quyền củng cố vị thế của đứa trẻ như một chủ thể độc lập hơn là khách thể thụ động, và là một thành tố cần thiết của quyền trẻ em. Các quyền này gồm quyền có bản sắc (tên và quốc tịch lúc sinh ra ; Điều khoản 7 và 8), quyền tự do bày tỏ ý kiến và thông tin (Điều khoản 13), quyền tự do tư tưởng và hội họp (Điều khoản 14 và 15), quyền riêng tư (Điều khoản 16) và quyền về văn hóa (Điều khoản 30). g. Quyền không phân biệt đối xử Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra 2 quy định quan trọng về sự phân biệt đối xử. Đầu tiên đòi hỏi những quyền được tuyên bố trong Công ước Liên Hiệp Quốc áp dụng cho tất cả mọi trẻ em không phân biệt (Điều khoản 2). Để tăng cường sự thực hiện này Công ước Liên Hiệp Quốc đưa ra những quy định cụ thể về những nhóm trẻ em đặc biệt chịu thiệt thòi : Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết tật về tinh thần hay thể chất cần được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế trong những điều kiện đảm bảo nhân phẩm, thúc đẩy khả năng tự lực, và tạo điều kiện dễ dàng cho trẻ tham gia tích cực vào cộng đồng. (Điều khoản 23.1). và
  16. 26 http://www.ebook.edu.vn Ở những quốc gia có tồn tại những nhóm thiểu số về chủng tộc, tôn giáo hay ngôn ngữ hoặc có những người gốc bản địa, đứa trẻ thuộc một nhóm thiểu số như thế hoặc là người bản địa sẽ không bị khước từ quyền, cùng với những thành viên khác trong cộng đồng của mình, được hưởng nền văn hóa của mình, được tuyên bố và được theo tôn giáo của mình và sử dụng tiếng nói của mình. Đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc, chính phủ Anh Quốc buộc phải hành động theo quy định của Công ước. Tuy nhiên, Công ước Liên Hiệp Quốc chưa kết hợp với luật pháp trong nước, cho nên những quyền cụ thể quy định trong Công ước không thể thi hành được trong những phiên tòa của quốc gia (Bainham 1993 : 607 - 8). Tuy thế, Công ước Liên Hiệp Quốc yêu cầu các chính phủ làm những báo cáo về sự tiến bộ của việc thực hiện Công ước cho Ủy ban Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em. Trong khi chính phủ Anh Quốc làm những báo cáo theo yêu cầu của Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1994 thì các tổ chức tự nguyện cũng đã làm việc một cách hiệu quả để phân tích mức độ chấp hành và tiếp tục vận động hành lang cho việc thực hiện Công ước có hiệu quả (xem CEDRU 1994 về phân tích toàn diện mức độ mà Anh Quốc chấp hành Công ước Liên Hiệp Quốc, và cả Newell 1991). Chính phủ Anh quốc biện luận rằng Đạo luật trẻ em 1989 chấp hành và phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc nên nhân viên xã hội quay trở lại với Đạo luật trẻ em 1989. h. Đạo luật trẻ em 1989 Giống như Công ước Liên hiệp quốc, Đạo luật trẻ em 1989 xuất hiện sau một thời gian dài, thảo luận và cân nhắc dựa vào các nguồn (gồm điều tra quần chúng, Hội đồng luật và quốc hội). Lại cũng giống Công ước Liên hiệp quốc, một số thành viên có quan tâm gồm các nhóm người chuyên nghiệp và các tổ chức phong trào và tự nguyện, tham gia vào việc vận động hành lang khi chuyển đạo luật qua quốc hội (xem Parton 1991 về lịch sử chi tiết của Đạo luật). Những nguồn lực khác nhau này được phản ảnh trong những quy định rộng rãi và mâu thuẫn tiềm ẩn của Đạo luật
  17. 27 http://www.ebook.edu.vn (xem phần dưới). Tuy vậy, Đạo luật đã được chào đón như một bước chính yếu tiến tới quyền trẻ em, nhất là quyền tham gia hay độc lập (Thí dụ Newell 1991 : xiii ; Franklin 1995 : 3). Trong phần này nhân viên xã hội sẽ xem xét Đạo luật trẻ em 1989 đối với 4 nhóm quyền - bảo vệ, phát triển tốt nhất, tham gia và không phân biệt đối xử - được Công ước Liên hiệp quốc thúc đẩy. i. Quyền an sinh/được bảo vệ. Một quan tâm chính của Đạo luật trẻ em 1989 là đảm bảo rằng trẻ em có quyền được chăm sóc và bảo vệ đầy đủ. Điều này được xử lý bằng 2 cách : thứ nhất là bằng cách đòi hỏi rằng sự an sinh của trẻ là sự quan tâm hàng đầu khi tòa án lấy quyết định, và thứ hai là bằng cách quy định khung luật pháp để bảo vệ trẻ em. Phần tương ứng của Đạo luật trẻ em với nguyên tắc vì “lợi ích tốt nhất cho trẻ em” trong Công ước Liên hiệp quốc là nguyên tắc an sinh đòi hỏi rằng “an sinh của trẻ phải là quan tâm đầu tiên của tòa” khi nào tòa quyết định những vấn đề chăm sóc hay nuôi nấng trẻ. Nguyên tắc an sinh áp dụng trong chăm sóc trẻ và các vụ kiện nguy cấp, các cuộc tranh chấp giữa cha mẹ. Trong khi tòa án có thể xem xét tới những yếu tố khác thì các vấn đề phải được quan tâm đặc biệt là : a) Ước mơ và cảm xúc có thể xác minh được của đứa trẻ (được xem xét theo độ tuổi và sự hiểu biết) ; b) Những nhu cầu học tập, tình cảm và thể chất của trẻ ; c) Tác dụng có thể có đối với trẻ do bất kỳ thay đổi nào trong hoàn cảnh của trẻ ; d) Tuổi tác, giới tính, trình độ và bất kỳ đặc điểm nào của trẻ mà tòa án cho là có liên quan ; e) Bất kỳ sự nguy hại nào mà trẻ phải chịu hoặc có nguy cơ sẽ chịu ; f) Khả năng của mỗi cha mẹ, và bất kỳ người nào khác có liên quan mà tòa án xem xét vấn đề có liên quan, đáp ứng nhu cầu của trẻ như thế nào. g) Các loại quyền lực có sẵn đối với tòa án dưới đạo luật này trong các vụ kiện. [ mục 1 (3) ]
  18. 28 http://www.ebook.edu.vn Có điều xác đáng vững vàng là tòa án tin rằng trẻ em được chăm sóc và bảo vệ tốt nhất trong gia đình của chúng. Khái niệm mới về “trách nhiệm của cha mẹ” nói lên nỗ lực vượt ra khỏi quan điểm xem em trẻ như vật sở hữu theo khái niệm cũ về “quyền của cha mẹ”. Trách nhiệm của cha mẹ được định nghĩa là “tất cả quyền, bổn phận, quyền lực, trách nhiệm, và quyền hành mà luật pháp quy định một người cha của đứa trẻ trong quan hệ với đứa trẻ và quyền sở hữu của trẻ. Sự chăm sóc trẻ và quyền riêng tư mà tòa cho là đúng đắn được tăng cường thêm nữa bởi quy định “can thiệp tối thiểu” [mục 1 (5)], để ngăn ngừa tòa án ra những lệnh có liên quan tới trẻ trừ trường hợp ra những lệnh như thế sẽ tốt hơn cho đứa trẻ. k. Quyền được phát triển tốt nhất Những quy định trong Đạo luật trẻ em 1989 thúc đẩy quyền trẻ em được phát triển tốt nhất được hình thành hạn chế hơn quyền trẻ em được bảo vệ. Tiếp cận ở nhà, giáo dục, sức khỏe và hỗ trợ thu nhập phần lớn nằm ngoài phạm vi của Đạo luật trẻ em, dù rằng tiết 27 cho phép chính quyền địa phương yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan bao gồm các lĩnh vực giáo dục, nhà ở, y tế cung ứng những dịch vụ hỗ trợ theo phần III của Đạo luật. Như nhân viên xã hội đã thấy cũng giống như Công ước Liên hiệp quốc, Đạo luật trẻ em nhấn mạnh rằng cha mẹ thường là người chăm sóc tốt nhất cho con cái của mình. Đây là một hành động tích cực cho trẻ em. Điều kém vui là vai trò bị hạn chế tiếp nhận các dịch vụ để hỗ trợ những nỗ lực của cha mẹ tạo những cơ hội phát triển tốt nhất có thể được cho con cái họ. Eekelaar (1991) trong cuộc thảo luận ban đầu về Đạo luật trẻ em đã nêu ra ý nghĩa của “trách nhiệm của cha mẹ” thay đổi như thế nào từ trách nhiệm của cha mẹ làm đầy đủ bổn phận đối với trẻ sang trách nhiệm chăm sóc trẻ thuộc về cha mẹ thay vì thuộc về nhà nước. Do vậy, trong khi nhà nước nhận ra tầm quan trọng của gia đình đối với trẻ em thì lại ít nhận ra sự quan trọng của các dịch vụ đối với gia đình - Sự chăm sóc của trẻ em phần lớn vẫn là trách nhiệm riêng tư và cá nhân. Bất hạnh được định nghĩa là :
  19. 29 http://www.ebook.edu.vn Trẻ không thể thành đạt hay duy trì hoặc không thể có cơ hội để thành đạt hay a) duy trì, tiêu chuẩn hợp lý về sức khỏe hay phát triển mà không có sự hỗ trợ các dịch vụ cho trẻ do chính quyền địa phương thuộc khu vực này ; Sự phát triển và sức khỏe của trẻ có thể bị tổn thương đáng kể, nhiều sự tổn b) thương mà không có sự hỗ trợ dịch vụ nào cho trẻ ; hoặc Trẻ bị khuyết tật. c) Đối với trẻ em được xem là không “bất hạnh”, thì Đạo luật không có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, dầu vậy chăm sóc ban ngày có thể được cung ứng cho trẻ không bất hạnh dưới 5 tuổi. Trên thực tế, sự thiếu hụt tài nguyên có nghĩa là “bất hạnh” được diễn dịch một cách hạn chế gồm số nhỏ trẻ em có nguy cơ liên quan tới việc thực hiện vai trò cha mẹ hơn là những nguy hiểm về kinh tế, xã hội hay môi trường . l. Quyền tham gia Đạo luật trẻ em 1989 được xem như một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em. Một cách tổng thể, Đạo luật ủng hộ phong cách lấy quyết định hòa nhập, đặc biệt nhấn mạnh đến sự tham gia của cha mẹ như những người đồng hành trong việc lấy quyết định. Song song với điều này, có sự nhấn mạnh đến sự tham gia của trẻ em trong những quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em. Bainham biện luận rằng Đạo luật “hỗ trợ một cách tổng quát khái niệm lấy quyết định có tham gia giao cho người trẻ một mức độ tự quyết định. Nguyên tắc chung này có chú ý đến quan điểm của trẻ em đánh dấu sự điều chỉnh quan trọng trong sự cân bằng quyền lực giữa trẻ em và xã hội người lớn” (1993 : 60). Ngay cả sự mở rộng quyền tham gia trong việc lấy quyết định cũng không nhất quán trong suốt đạo luật. Quyền của trẻ em không những chỉ tùy thuộc vào những yếu tố chủ yếu như tuổi tác và sự trưởng thành mà còn tùy vào vấn đề có nguy cơ.
  20. 30 http://www.ebook.edu.vn Những quy định của Đạo luật liên quan tới quyền tham gia tạo cho trẻ em có những vai trò và vị thế khác nhau. • Người không tham gia. Trong một số trường hợp, theo Đạo luật trẻ em không có quyền tham gia lấy quyết định. Những thí dụ rõ ràng nhất là những trẻ em mà cha mẹ ly hôn hay ly thân thỏa thuận về sự xếp đặt đối với con cái của họ. Trong các vụ kiện riêng tư không phán quyết, cha mẹ và tòa án không có bổn phận tham khảo ý kiến trẻ em về sở thích của trẻ đối với việc cư trú và gặp gỡ. • Người nhận thông tin. Chính quyền địa phương có bổn phận công bố thông tin về các dịch vụ hỗ trợ gia đình. Cụ thể hơn, có sự mong đợi rằng làm việc với trẻ em không chỉ tìm hiểu quan điểm của trẻ mà còn giải thích cho trẻ bất kỳ quyết định nào được đưa ra. • Người được tham khảo. Đạo luật yêu cầu ý kiến của trẻ em cần phải được nhận biết trong hàng loạt quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em. Trong khi Đạo luật đòi hỏi phải lắng nghe tiếng nói của trẻ em nhưng tiếng nói của trẻ thì lại chẳng được lắng nghe chút nào, mà cũng chẳng có ảnh hưởng nào. Quyền mà Đạo luật đưa ra nói chung chỉ là sự tư vấn ; bổn phận “quan tâm” đến quan điểm của trẻ mà quan điểm thì khác với sự quyết định. Quyền tư vấn là quyền đi sau quyền tối quan trọng an sinh (dù vậy không có sự loại trừ nhau). Tầm quan trọng được đặt vào quan điểm của trẻ em là phải tùy thuộc vào “tuổi tác và sự hiểu biết”, với mong đợi rằng sự quan trọng sẽ được đặt vào quan điểm của đứa trẻ trưởng thành hơn (nhưng không chỉ đơn giản là trưởng thành theo thời gian). • Người đồng ý. Có nhiều lĩnh vực của đạo luật trong đó trẻ em được trao quyền xác định kết quả thực sự một quyết định. Điều này phải có sự đồng ý và tùy theo sự thẩm định khả năng lấy quyết định của đứa trẻ. Trẻ em được Đạo luật làm tăng năng lực để khước từ cuộc khám nghiệm tâm thần hay y khoa, thẩm định hay
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0