
Ngày nhận bài: 06-09-2024 / Ngày chấp nhận đăng bài: 03-10-2024 / Ngày đăng bài: 05-10-2024
*Tác giả liên hệ: Huỳnh Trung Sơn. Trung tâm Bác sĩ gia đình, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
E-mail: huynhtrungson@ump.edu.vn
© 2024 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
140 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
ISSN: 1859-1779
Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 27(4):140-147
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.19
Đặc điểm chức năng gia đình và sức khỏe tâm
thần của người bệnh tại phòng khám Y học gia
đình, bệnh viện Quận 4
Huỳnh Trung Sơn1,*, Nguyễn Như Vinh1, Tạ Minh Cơ2, Huỳnh Minh Thư2,
Lê Thạc Bách2, Nguyễn Thị Lệ Hằng3, Nguyễn Thị Bích Ngọc1,
Phan Chung Thùy Lynh1, Phạm Lê An1
1Trung tâm Bác sĩ gia đình, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Khoa Y, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
3Bệnh viện Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Chức năng gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe thể chất và tinh thần của cá nhân
cũng như cả gia đình. Tuy nhiên, các nghiên cứu về chức năng gia đình ở người bệnh ngoại trú vẫn còn hạn chế.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ rối loạn chức năng gia đình và sức khỏe tâm thần, cụ thể là lo âu và trầm
cảm, ở người bệnh đến khám tại Phòng khám Y học gia đình, Bệnh viện Quận 4.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả được thực hiện trên 131 người bệnh thỏa tiêu chuẩn
nhận vào. Chức năng gia đình được đánh giá bằng thang đo APGAR gia đình, trong khi triệu chứng lo âu và trầm cảm
được tầm soát bằng thang đo HADS.
Kết quả: Tỷ lệ rối loạn chức năng gia đình là 24,4%. Tỷ lệ rối loạn lo âu và trầm cảm lần lượt là 16,0% và 31,3%. Có sự
liên quan giữa rối loạn chức năng gia đình với mức độ lo âu và trầm cảm cao hơn ở người bệnh, với sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
Kết luận: Tỷ lệ rối loạn chức năng gia đình, rối loạn lo âu, trầm cảm tương đối cao. Việc đánh giá chức năng gia đình và
tầm soát các vấn đề sức khỏe tâm thần trên trong chăm sóc ban đầu là cần thiết.
Từ khoá: chức năng gia đình; lo âu; trầm cảm; phòng khám Y học gia đình

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.19 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 141
Abstract
FAMILY FUNCTIONING AND MENTAL HEALTH OF PATIENTS AT THE
FAMILY MEDICINE CLINIC, DISTRICT 4 HOSPITAL
Huynh trung Son, Nguyen Nhu Vinh, Ta Minh Co, Huynh Minh Thu, Le Thac Bach,
Nguyen Thi Le Hang, Nguyen Thi Bich ngoc, Phan Chung Thuy Lynh, Pham Le An
Background: Family function plays an important role in maintaining the physical and mental health of individuals as well
as the entire family. However, there is currently limited research on family functioning in outpatients.
Objectives: To determine the prevalence of family dysfunction and mental health disorders, specifically anxiety and
depression, in patients attending the Family Medicine Clinic at District 4 Hospital.
Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 131 eligible patients. Family functioning was assessed
using the Family APGAR scale, while symptoms of anxiety and depression were screened using the HADS scale.
Results: The prevalence of family dysfunction was 24.4%. The prevalence of anxiety and depression was 16.0% and
31.3%, respectively. There was a statistically significant association between family dysfunction and higher levels of
anxiety and depression in patients.
Conclusion: The prevalence of family dysfunction, anxiety and depression was relatively high among the participants in
the study. Assessing family functioning and screening for these mental health issues are necessary in primary care settings.
Key words: family functioning; anxiety; depression; Family Medicine Clinic
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng gia đình (CNGĐ) đóng vai trò then chốt trong
sự tương tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sức khỏe thể chất và tâm thần của từng
cá nhân. Gia đình là nguồn lực quan trọng trong việc chăm
sóc người bệnh, đặc biệt là người mắc bệnh mạn tính, giúp tối
ưu hóa hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng sống. Sự hỗ
trợ từ gia đình không chỉ giới hạn trong khía cạnh vật chất mà
còn bao gồm sự đồng hành về tinh thần, đóng vai trò quan
trọng trong việc đối phó với căng thẳng và các rối loạn tâm lý.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng rối loạn CNGĐ có mối
liên hệ với các vấn đề sức khỏe tâm thần, đặc biệt là trầm cảm
và lo âu. Một nghiên cứu tại Mexico vào năm 2015 trên 299
người bệnh ghi nhận CNGĐ có vai trò quan trọng trong việc
quản lý và điều trị bệnh mạn tính [1]. Tương tự, một phân tích
tổng hợp tại Hàn Quốc năm 2020 trên 46.095 người bệnh đã
kết luận rằng rối loạn CNGĐ có liên quan chặt chẽ đến tình
trạng trầm cảm [2]. Những nghiên cứu này cùng một số
nghiên cứu khác cho thấy rằng CNGĐ không chỉ tác động lên
sức khỏe tâm thần mà còn có thể ảnh hưởng đến các khía cạnh
xã hội và lâm sàng khác của người bệnh [3].
Phòng khám Y học gia đình (PK YHGĐ), với vai trò chăm
sóc sức khỏe ban đầu và quản lý toàn diện sức khỏe người
bệnh, là nơi thích hợp để nghiên cứu mối liên hệ giữa CNGĐ
và sức khỏe tâm thần, đặc biệt là trầm cảm và lo âu. Sự phức
tạp trong mối quan hệ giữa các yếu tố này đòi hỏi phải có
nghiên cứu chuyên sâu nhằm làm rõ tác động của CNGĐ đến
tình trạng tâm lý và lâm sàng của người bệnh. Việc khảo sát
CNGĐ cùng các yếu tố sức khỏe tâm thần như lo âu và trầm
cảm sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về sự tương tác giữa
các yếu tố này, giúp thầy thuốc xây dựng các chiến lược can
thiệp phù hợp, không chỉ dựa trên triệu chứng mà còn trên bối
cảnh gia đình và xã hội của người bệnh.
Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát tỷ lệ
rối loạn CNGĐ và tỷ lệ có triệu chứng lo âu và trầm cảm, ở
người bệnh đến khám tại PK YHGĐ, bệnh viện Quận 4,
Thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu của nghiên cứu là cung
cấp thông tin quan trọng để cải thiện chất lượng chăm sóc ban

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
142 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.19
đầu, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc sống
của người bệnh.
2. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh đến khám tại PK YHGĐ, bệnh viện (BV)
Quận 4, thỏa tiêu chuẩn nhận vào.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Từ đủ 18 tuổi trở lên.
Tỉnh táo, có khả năng nghe, hiểu và trả lời được bằng tiếng Việt.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Trả lời toàn bộ các câu hỏi trong bộ câu hỏi.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại
Đã được phỏng vấn trước đó trong nghiên cứu này.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ:
𝑛 = 𝑧∙ 𝑝 ∙ (1 − 𝑝)
𝑑
Trong đó:
n là cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu, đơn vị tính
là người;
z là giá trị phân phối chuẩn, với độ tin cậy 95% thì
z(1-α/2) = 1,96;
α là xác suất sai lầm loại I, α = 0,05;
d là độ chính xác, chọn d = 0,07;
p là tỷ lệ rối loạn CNGĐ, chọn p ≈ 0,21 theo nghiên cứu của
Cheng Y trên đối tượng các cư dân trưởng thành từ 15 tuổi trở
lên tại ba thành phố Vũ Hán, Xiaogan và Qianjiang, tỉnh Hồ
Bắc, tương đồng với đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.
Tính ra cỡ mẫu n ≈ 114 người.
Có 131 người tham gia đủ điều kiện được đưa vào nghiên
cứu của chúng tôi.
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện.
2.2.3. Biến số nghiên cứu
Ngoài các đặc điểm nhân khẩu và xã hội học (Bảng 1), đặc
điểm thói quen sinh hoạt (Bảng 2), trong nghiên cứu này,
chúng tôi tầm soát rối loạn lo âu và rối loạn trầm cảm bằng
thang đo HADS [4] và khảo sát rối loạn CNGĐ bằng thang
đo APGAR gia đình [5]. Cụ thể, rối loạn lo âu được xác định
khi tổng điểm HADS-A ≥7 và rối loạn trầm cảm khi tổng
điểm HADS-D ≥7.
Thang đo APGAR gia đình gồm 5 câu hỏi, mỗi câu có 3
lựa chọn: "hầu như luôn luôn" (2 điểm), "đôi khi" (1 điểm),
và "hầu như không" (0 điểm). Rối loạn CNGĐ được xác định
khi tổng điểm APGAR <7.
2.2.5. Phân tích và xử lý số liệu
Các biến số định tính được trình bày dưới dạng tần số và tỷ
lệ phần trăm.
Các biến số định lượng được biểu diễn dưới dạng trung bình
và độ lệch chuẩn nếu phân phối bình thường, hoặc trung vị và
khoảng tứ phân vị nếu không phân phối bình thường.
Phép kiểm t-test được áp dụng cho biến định lượng có phân
phối chuẩn, trong khi phép kiểm Mann-Whitney được sử dụng
cho biến định lượng không có phân phối chuẩn.
Phép kiểm Chi-square (hoặc phép kiểm chính xác Fisher
khi 20% số vọng trị nhỏ hơn 5) được sử dụng để xác định mối
liên quan giữa các biến số về đặc điểm dân số và biến số về
CNGĐ, với ngưỡng ý nghĩa thống kê là p-value <0,05.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm R phiên bản 4.1.2.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm nhân khẩu, xã hội học
Có 131 người tham gia thỏa tiêu chuẩn nhận vào và không
có tiêu chuẩn loại ra được đưa vào nghiên cứu. Hầu hết người
bệnh đang sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh (94,7%) và
sử dụng bảo hiểm y tế (98,5%) khi đến khám chữa bệnh.
Phân bố tuổi cho thấy phần lớn thuộc nhóm 40-59 tuổi
(50,4%), tiếp theo là nhóm ≥60 tuổi (40,5%) và nhóm <40
tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất (9,2%). Về giới tính, có sự chênh

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.19 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 143
lệch đáng kể với người bệnh nữ gấp đôi người bệnh nam
(66,4% so với 33,6%). Đa số người bệnh có trình độ học vấn
dưới cấp 3 (62,6%) và tỷ lệ người đã nghỉ hưu chiếm 40,5%,
trong khi 29,0% làm việc toàn thời gian. Về tình trạng tài
chính, gần một nửa người tham nghiên cứu cho biết họ tự chủ
hoàn toàn (44%), trong khi 26,7% phụ thuộc tài chính người
thân. Đa số người bệnh sống cùng gia đình (93,9%) và đã kết
hôn (78,6%) (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu và xã hội học của người bệnh tại
phòng khám Y học gia đình, bệnh viện Quận 4 (n=131)
Đặc điểm Tần số (tỷ lệ %)
Tuổi
<40 12 (9,2%)
40-59 66 (50,4%)
≥ 60 53 (40,5%)
Giới
Nam 44 (33,6%)
Nữ 87 (66,4%)
Trình độ học vấn
Dưới cấp 3 82 (62,6%)
Cấp 3 27 (20,6%)
Trên cấp 3 22 (16,8%)
Tình trạng công việc
Nội trợ 27 (20,6%)
Học sinh / sinh viên 2 (1,5%)
Bán thời gian 11 (8,4%)
Toàn thời gian 38 (29,0%)
Nghỉ hưu 53 (40,5%)
Tình trạng tài chính
Phụ thuộc 35 (26,7%)
Tự chủ 1 phần 38 (29,0%)
Tự chủ hoàn toàn 58 (44,3%)
Hoàn cảnh sống
Sống cùng gia đình 123 (93,9%)
Không sống cùng với gia đình 8 (6,1%)
Tình trạng hôn nhân
Độc thân 15 (11,5%)
Kết hôn 103 (78,6%)
Ly dị / góa 13 (9,9%)
3.2. Đặc điểm thói quen sinh hoạt theo giới tính
Trong số người bệnh đến khám PK YHGĐ tại BV Quận 4
trong thời gian nghiên cứu, nhìn chung nữ giới có thói quen
sinh hoạt lành mạnh hơn nam giới với tỷ lệ hút thuốc lá và
tiêu thụ bia rượu ở nữ thấp hơn, cũng như tỷ lệ có thói quen
tập thể dục ở nữ giới cao hơn nam giới (Bảng 2). Cụ thể, tỷ lệ
nam giới đang hút thuốc lá chiếm 36,4%, cao hơn rất nhiều
so với nữ giới (1,1%). Về việc uống bia rượu, 61,4% nam giới
có uống, trong khi tỷ lệ này ở nữ giới chỉ là 2,3%. Tỷ lệ người
bệnh nữ có thói quen tập thể dục cũng cao hơn người bệnh
nam, mặc dù mức độ chênh lệch không quá lớn.
Bảng 2. Đặc điểm thói quen sinh hoạt của 131 người bệnh tại
phòng khám Y học gia đình, bệnh viện Quận 4
Nam
N=44 (100%) Nữ
N=87 (100%)
Hút thuốc lá
Không hút 14 (31,8%) 86 (98,9%)
Từng hút 14 (31,8%) 0 (0%)
Đang hút 16 (36,4%) 1 (1,1%)
Uống bia rượu
Không 17 (38,6%) 85 (97,7%)
Có 27 (61,4%) 2 (2,3%)
Thói quen tập thể dục
Có 25 (56,8%) 56 (64,4%)
Không 19 (43,2%) 31 (35,6%)
3.3. Đặc điểm chức năng gia đình và sức khỏe tâm thần
Trong tổng số 131 người tham gia nghiên cứu, tỷ lệ rối loạn
CNGĐ theo thang đo APGAR là 24,4%. Bên cạnh đó, tỷ lệ
rối loạn lo âu và trầm cảm theo thang đo HADS lần lượt là
16,0% và 31,3% (Bảng 3).
Mặc dù tỷ lệ lo âu ở nhóm có rối loạn CNGĐ cao hơn nhóm
không có rối loạn (28,1% so với 12,1%), sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p = 0,06). Tuy nhiên, điểm trung bình lo
âu (HADS-A) ở nhóm có rối loạn CNGĐ (4,9 ± 3,1) cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có rối loạn CNGĐ
(3,1 ± 2,7) với p = 0,02. Hơn nữa, điểm trầm cảm trung bình
(HADS-D) ở nhóm có rối loạn CNGĐ là 7,6 ± 3,6, cao hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có rối loạn (5,5 ± 3,1),
p <0,001. Tỷ lệ rối loạn trầm cảm trong nhóm có rối loạn
CNGĐ là 56,3%, cao hơn đáng kể so với nhóm không có rối
loạn (23,2%), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,001).

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
144 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.19
Bảng 3. Mối liên quan giữa rối loạn chức năng gia đình (CNGĐ) theo thang điểm APGAR và rối loạn lo âu và trầm cảm theo thang đo
HADS ở người đến khám phòng khám Y học gia đình, bệnh viện Quận 4 (n=131)
Có rối loạn CNGĐ Không rối loạn CNGĐ Tổng p
Rối loạn lo âu
Điểm HADS-A* 4,9 ± 3,1 3,1 ± 2,7
0,02
Có 9 (28,1%) 12 (12,1%) 21 (16,0%) 0,06
Không 23 (71,9%) 87 (87,9%) 110 (84,0%)
Rối loạn trầm cảm
Điểm HADS-D* 7,6 ± 3,6 5,5 ± 3,1
<0,001
Có 18 (56,3%) 23 (23,2%) 41 (31,3%) 0,001
Không 14 (43,7%) 76 (76,8%) 90 (68,7%)
* Trung bình ± độ lệch chuẩn aKiểm định Chi Square bKiểm định Fisher’s *Bước quan trọng
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm nhân khẩu và xã hội học
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn người bệnh đến
khám tại PK YHGĐ, BV Quận 4, thuộc nhóm tuổi trung niên
và cao tuổi. Đặc điểm này trong dân số nghiên cứu của chúng
tôi khá tương đồng với dân số người bệnh tại PK YHGĐ, BV
Lê Văn Thịnh [6,7], BV Quận Tân Phú (8). Đây là nhóm tuổi
có nhu cầu chăm sóc sức khỏe cao với sự gia tăng tỷ lệ mắc
các bệnh mạn tính không lây cũng như những thay đổi liên
quan đến vòng đời gia đình. Bên cạnh đó, với mô hình bệnh
tật tại phòng khám ngoại trú bệnh viện tuyến quận huyện là
mô hình kép bệnh lây và không lây mạn tính [6,7], việc chăm
sóc người bệnh toàn diện cả về sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe
tâm thần là cần thiết. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số
người bệnh có trình độ học vấn dưới cấp 3, điều này có thể
gợi ý về mức độ hạn chế trong việc tiếp cận giáo dục và thông
tin y tế, cũng như nhận thức về sức khỏe và khả năng tự chăm
sóc, dẫn đến sự phụ thuộc nhiều hơn vào các dịch vụ y tế. Bên
cạnh đó, hầu hết người tham gia sống cùng gia đình, phản ánh
sự gắn kết gia đình trong văn hóa Việt Nam.
4.2. Đặc điểm thói quen sinh hoạt theo giới tính
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hút thuốc lá và uống bia rượu ở
nam giới cao hơn đáng kể so với nữ giới, điều này phù hợp
với các nghiên cứu trước đây về hành vi sức khỏe của nam
giới ở Việt Nam. Cụ thể, Khảo sát toàn cầu sử dụng thuốc lá
ở người trưởng thành của Bộ Y tế cho thấy 42,3% nam giới
được khảo sát có hút thuốc lá, trong khi con số này ở nữ giới
chỉ là 1,7% [9]. Bên cạnh đó, nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận tỷ lệ nữ giới có thói quen tập thể dục cao hơn nam giới,
cho thấy phụ nữ có xu hướng duy trì lối sống lành mạnh hơn,
điều này có thể góp phần vào việc giảm nguy cơ mắc các bệnh
liên quan đến lối sống. Thật vậy, sự khác biệt về giới tính
trong hành vi và thái độ đối với sức khỏe đóng vai trò quan
trọng trong việc ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe chung
cũng như nguy cơ phát triển các bệnh mạn tính. Mặc dù vậy,
sự tương tác giữa các yếu tố này cần được nghiên cứu nhiều
hơn để đưa ra các giải pháp toàn diện, giúp giảm nguy cơ mắc
bệnh cho cả hai giới [10].
4.3. Đặc điểm chức năng gia đình và sức khỏe
tâm thần
Tỷ lệ rối loạn CNGĐ theo thang đo APGAR trong nghiên
cứu của chúng tôi là 24,4%, khá tương đồng với tỷ lệ ghi nhận
được trên người bệnh tăng huyết áp tại PK YHGĐ, BV Quận
Tân Phú vào năm 2019 (25,9%) [8]; và tương đối cao hơn so
với nghiên cứu của Cheng Y trên đối tượng người từ 15 tuổi
trở lên tại tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc (21%) [11]. Sự khác biệt
này, bên cạnh những khác biệt về đặc điểm dân số nghiên cứu,
có thể xuất phát từ sự biến đổi cấu trúc gia đình theo thời gian.
Quận 4 là một khu vực đô thị hóa với mật độ dân cư cao; BV
Quận 4, nơi phục vụ chủ yếu cho dân cư thành thị với đa dạng
về hoàn cảnh kinh tế, việc đánh giá và can thiệp vào CNGĐ
có ý nghĩa thực tiễn quan trọng để cải thiện chất lượng chăm
sóc y tế.
Về đặc điểm sức khỏe tâm thần, tỷ lệ người bệnh có rối
loạn lo âu và trầm cảm theo thang đo HADS lần lượt là 16,0%
và 31,3%, thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Đức Minh