ĐẠI CƯƠNG VỀ MIỄN DỊCH HỌC
Phần 1
Tên gọi tiếng Anh “immunity” (tính miễn dịch) có nguồn gốc từ tiếng Latinh
“immunitas” có nghĩa là miễn trừ sự cáo buộc pháp luật dành cho các nghị sĩ quốc
hội trong thời gian âæång chức. Trong lịch sử, miễn dịch được dùng để chỉ s
không mắc bệnh, mà cthể là các bệnh nhiễm trùng. Trong thể, tất cả các tế
bào phân thoá học chịu trách nhiệm vtính miễn dịch hợp thành hthống
miễn dịch, và toàn bnhững đáp ứng của chúng tạo ra đối với những chất lạ xâm
nhập vào cơ thể được gọi là đáp ứng miễn dịch.
Chức năng sinh của hệ thống miễn dịch là bảo vmột thể chống lại
các vi sinh vật gây bệnh m nhập vào thể đó. Tuy nhiên, những chất lạ không
gây bệnh xâm nhập vào thể cũng gây ra đáp ứng miễn dịch. Hơn nữa, cơ chế
bảo vệ bình thường còn khi gây ra một số thương tổn cho cơ thể. Do đó, người
ta đã đưa ra một định nghĩa bao m hơn đối với tính miễn dịch là phản ứng đối
với các chất lạ, bao gồm cả vi khuẩn các đại phân tử như protein, c
polysaccharide, không kphản ứng đó là sinh hay bệnh lý. Miễn dịch học là
môn học nghiên cứu tính miễn dịch với nghĩa rộng này đối với các hoạt động phân
tử và tế bào xảy ra sau khi các vi sinh vật và đại phân tử xâm nhập vào cơ thể.
Các nhà shọc krằng: Thucydides, một người Hy Lạp ở Athens, người
đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên đề cập đến tính miễn dịch chống lại
bệnh nhiễm trùng mà lúc đó được gọi là “bệnh dịch”. Khái niệm “tính miễn dịch”
lđã tồn tại rất lâu trước đó Trung Quốc vì người dân đây tập tục cho
người dân hít chất bột làm tda của người bị đậu mùa đã khỏi để phòng ngừa
bệnh này. Còn min dịch học, với tư cách một môn học hiện đại, lại là một
ngành khoa học thực nghiệm, trong đó các hiện tượng miễn dịch được giải thích
dựa trên những quan sát thực nghiệm. Miễn dịch học, với cách một môn học
thực nghiệm, đã tiến hoá theo năng lực của con người hiểu biết và kiểm soát chức
năng của hệ thống miễn dịch. Bằng chứng đầu tiên trong lịch sử về năng lực này là
thành công của Edward Jenner trong việc chủng ngừa phòng bệnh đậu mùa. Jenner
là một thầy thuốc người Anh, ông đã quan sát thấy rằng những người vắt sữa đã b
bệnh đậu bò sau đó hồi phục thì không bao gimắc bệnh đậu mùa nữa. Dựa
vào nhận định này, ông đã lấy dịch từ vết thương của người bị đậu bò tiêm cho
một đứa trẻ 8 tuổi. Đứa trẻ này sau đó cho tiếp xúc trực tiếp với người bệnh đậu
mùa thì đã không mắc bệnh và ông gọi cách bảo vệ của mình "vaccination”
(chủng ngừa) (chữ vaccination bắt nguồn từ tiếng Latinh “vacca” nghĩa là con
cái) và đã cho xut bản quyển sách “Vaccination” vào năm 1798. Từ đó biện pháp
phòng bệnh nhiễm trùng này đã phát triển rộng rãi cho đến nay vẫn là
phương pháp phòng ngừa hiệu quả nhất đối với các bệnh nhiễm trùng (Bảng 1.1).
Một văn bản ý nghĩa quan trọng đối với ngành Miễn dịch học là công bcủa
Tchức Y tế Thế giới năm 1980 rằng bệnh đậu mùa căn bệnh đầu tiên trên thế
giới đã bloại trừ nhờ vào công tác chủng ngừa.
Tnhững m 1960, chúng ta đã một sự chuyển biến trong hiểu biết về
hthống miễn dịch và chức năng của nó. Các tiến bộ về kthuật nuôi cấy tế bào
(kcả kỹ thuật sản xuất kháng thể đơn dòng), hoá miễn dịch, phương pháp DNA
tái thợp, động vật biến đổi gen, ... đã chuyển miễn dịch học từ chỗ chủ yếu là các
hoạt động tả thành một ngành khoa học trong đó các hiện tượng miễn dịch
được giải thích bằng những thuật ngữ sinh h và cấu trúc. Trong chương y
chúng tôi trình bày những đặc điểm chung của đáp ứng miễn dịch cũng như giới
thiệu những ki niệm tạo nên những bước ngoặc trong ngành miễn dịch học hiện
đại.
Bảng 1.1. Hiệu quả của vắc-xin đối với một số bệnh nhiễm trùng thường
gặp tại Hoa Kỳ
Bệnh
S bệnh nhân
năm 2000
S bệnh
nhân m
Tỷ lệ
phần trăm
2000
Bạch hầu 206.939 (1921)
2 -99,99
Sởi 894.134 (1941)
63 -99,99
Quai b 152.209 (1968)
315 -99,99
Ho gà 265.269 (1934)
6.755 -97,73
Bại liệt 21.269 (1952) 0 -100,00
Rubella 57.686 (1969) 152 -99,84
Uốn ván 1.560 (1923) 26 -98,44
H. Znfluenza typ B ~20.000
(1984)
1.212 -93,14
Viêm gan B 26.611 (1985) 6.646 -75,03
1.1. Tính min dịch bm sinh và thu được
S đề kháng chống lại vi sinh vật trong thể ban đầu là những phản ứng
của hệ thống miễn dịch bẩm sinh và sau đó của miễn dịch thu được (Hình 1.1,
Bảng 1.2). Hệ miễn dịch bẩm sinh (còn gọi là miễn dịch tự nhiên) bao gm các
chế đề kháng đã tồn tại trong thể khi chưa nhiễm trùng và sẵn sàng đáp ứng
rất nhanh khi vi sinh vật xâm nhập. Các cơ chế này chyếu phản ứng chống lại vi
sinh vật chứ không phản ứng với các vật lạ không phải là vi sinh vật; đồng thời
chúng phản ứng theo một chế giống hệt nhau khi vi sinh vật xâm nhập tái đi tái
lại. Các thành phần chính của miễn dịch bẩm sinh bao gồm: (1) các hàng rào vật lý
hoá học như da, niêm mạc, các chất kháng khuẩn được tiết ra trên các bmặt
này; (2) các tế bào thực bào (tế bào trung tính, đại thực bào) tế bào NK (tế bào
giết tự nhiên); (3) các protein trong máu, bao gồm các thành phần của hệ thống bổ
th và các chất trung gian khác của phản ứng viêm; (4) các protein gọi là
cytokin vai trò điều hoà phối hợp các hoạt động của tế bào trong hmiễn
dịch bẩm sinh. chế hoạt động của hệ miễn dịch bẩm sinh chỉ đặc hiệu cho
những cấu trúc chung của từng nhóm vi sinh vật không đặc hiệu cho những
khác biệt tinh tế trong từng nhóm này. Hmiễn dịch bẩm sinh tạo ra những phản
ứng đầu tiên chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật.
Ngược với hệ miễn dịch bẩm sinh, những đáp ứng miễn dịch khác được
kích thích bởi sự tiếp xúc với vi sinh vật và tạo ra cường độ tăng dần nếu sự tiếp
xúc này được lặp đi lặp lại. Bởi vì dạng đáp ứng này chxuất hiện sau khi vi sinh
vật xâm nhập cơ thể nên nó được gọi là miễn dịch thu được. Tính chất đặc biệt của