
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
445
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐỘC LẬP TRONG SINH HOẠT HÀNG NGÀY
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN
SAU THAY KHỚP HÁNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY NĂM 2020
Trương Văn Hiền1, Vu Vân Thanh1, Trần Văn Nên1, Nguyễn Thị Hồng1, Lã Ngọc Quang2, Đỗ Chí Hùng2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Người bệnh sau khi thay khớp háng cần phục hồi chức năng trong sinh hoạt hàng ngày và nhu
cầu độc lập trong sinh hoạt, hạn chế sự phụ thuộc vào người thân. Nghiên cứu “Đánh giá mức độ độc lập trong
sinh hoạt hằng ngày và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân sau thay khớp háng tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm
2020” là cần thiết.
Mục tiêu: Mô tả mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày và phân tích một số yếu tố liên quan của bệnh
nhân sau phẫu thuật thay khớp háng tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2020.
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, được thực hiện tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng
03/2020 đến tháng 07/2020.
Kết quả: Thực hiện trên 165 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân nữ và nam gần tương đương, nhóm 71-80 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất (25,4%) và nhóm nghề nông chiếm 57%. Kết quả cho thấy, khoảng 6,1% bệnh nhân phụ
thuộc hoàn toàn sinh hoạt hằng ngày của họ, được đánh giá theo chỉ số Barthel (khoảng 10 người bệnh), tỷ lệ
bệnh nhân cần trợ giúp mức trung bình chiếm 38,2%. Trong khi đó trợ giúp ít và độc lập hoàn toàn lần lượt
chiếm 53,9% và 1,8%.
Kết luận: Có mối liên quan giữa nhóm tuổi, nghề nghiệp với mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của
người bệnh.
Từ khóa: mức độ độc lập, thay khớp háng, phục hồi chức năng
ABSTRACT
ASSESSMENT OF INDEPENDENCE IN DAILY ACTIVITIES AND SOME RELATED FACTORS
OF PATIENTS AFTER HIP REPLACEMENT SURGERY AT CHO RAY HOSPITAL IN 2020
Truong Van Hien, Vu Van Thanh, Tran Van Nen, Nguyen Thi Hong, La Ngoc Quang, Do Chi Hung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 5 - 2021: 445 - 451
Background: Patients after hip replacement surgery need to restore function in daily activities and
need independence in daily life, limiting dependence on relatives. The study "Assessment of independence in
daily activities and some related factors of patients after hip replacement surgery at Cho Ray Hospital in
2020" is necessary.
Objectives: Describe the degree of independence in daily life and analyze some related factors of patients
after hip replacement surgery at Cho Ray Hospital in 2020.
Methods: cross-sectional study, was implemented at Cho Ray Hospital from March to July 2020.
Results: The research was conducted on total 165 patients, with the proportion of female and male being
similarly equivalent, age group of 71-80 years old accounted for the highest with 25,4%, the percent of farmer
group being 57%. The results indicated that about 6.1% patients were completely dependent with theirs daily
activities which were asessed by Barthel index (about 10 patients), the proportion of patients with average help
1Bệnh viện Chợ Rẫy 2Trường Đại học Y Tế Công Cộng
Tác giả liên lạc: CN. Trương Văn Hiền ĐT: 0907.999.234 Email: hientruong1977@gmail.com

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền
446
accounted for 38.2%. Meanwhile, little assistance and complete independence accounted for 53.9% and 1.8%
respectively.
Conclusion: There is a relationship between age group, occupation and independence level in daily activities
of patients.
Key words: independence level, hip replacement, rehabilitation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy cổ xương đùi là thương tổn thường gặp
ở người cao tuổi, liên quan chặt chẽ đến vấn đề
chất lượng xương. Phẫu thuật thay khớp háng
nhân tạo trong điều trị gãy cổ xương đùi được
xem là phương pháp lý tưởng. Phẫu thuật thay
khớp háng nhân tạo giúp cho người bệnh giảm
đau, phục hồi tầm vận động của khớp, đi lại
bình thường và cuộc sống được cải thiện. Đối
với người bệnh được thực hiện phẫu thuật này
cần được phối hợp điều trị: phục hồi chức năng
sau phẫu thuật và kết hợp điều trị nội khoa các
bệnh lí kèm theo(1). Hiện nay chỉ có nghiên cứu
về đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng
hoặc đánh giá hiệu quả, chất lượng cuộc sống
sau thay khớp háng(2-7); chưa có nghiên cứu nào
đưa ra để đánh giá mức độ độc lập trong sinh
hoạt hàng ngày của bệnh nhân sau thay khớp
nhân tạo.
Bệnh viện Chợ Rẫy là một trong ba bệnh
viện thuộc hạng đặc biệt của cả nước và là nơi
đào tạo nguồn nhân lực cho toàn miền nam.
Theo thống kê năm 2018, khoa Chấn thương
Chỉnh hình, bệnh viện Chợ Rẫy tiếp nhận và
điều trị trên 8037 ca tại đây trong đó thay khớp
háng 326 ca chiếm tỉ lệ 4%(8). Số lượng bệnh nhân
có nhu cầu thay khớp háng nhân tạo tại bệnh
viện ngày càng đông, tuy nhiên phẫu thuật thay
khớp háng nhân tạo sẽ ảnh hưởng như thế nào
đến khả năng đi lại, mức độ độc lập sinh hoạt
hàng ngày của người bệnh; phục hồi chức năng
sẽ giúp được gì trong quá trình hồi phục sau
thay khớp háng nhân tạo trước và sau khi xuất
viện cần được tiến hành đánh giá tại bệnh viện.
Nghiên cứu đánh giá mức độ độc lập trong sinh
hoạt hàng ngày của bệnh nhân chấn thương nói
chung và bệnh nhân thay khớp háng nói riêng
hiện cần thiết. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu: “Đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt
hàng ngày và một số yếu tố liên quan của bệnh
nhân sau thay khớp háng tại bệnh viện Chợ Rẫy
năm 2020”. Nhằm đánh giá mức độ độc lập
trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh sau
phẫu thuật thay khớp háng nhân tạo và các yếu
tố liên quan ảnh hướng đến mức độ độc lập
trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh và
đưa ra những khuyến cáo nhằm giúp người
bệnh cải thiện khả năng độc lập cần thiết trong
cuộc sống hàng ngày.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân sau phẫu thuật thay khớp
háng nhân tạo tại khoa Chấn thương Chỉnh hình
bệnh viện Chợ Rẫy. Nghiên cứu thực hiện từ
tháng 03/2020 đến tháng 07/2020.
Tiêu chí chọn vào
Tất cả bệnh nhân đã được phẫu thuật thay
khớp háng nhân tạo tại Khoa chấn thương chỉnh
hình Bệnh viện Chợ Rẫy. Có đầy đủ hồ sơ bệnh
án, chụp phim X-Quang trước và sau mổ, có địa
chỉ rõ ràng. Có đầy đủ hồ sơ bệnh án, được theo
dõi phục hồi chức năng sau phẫu thuật thay
khớp háng. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên
cứu và có khả năng nhận thức, giao tiếp để trả
lời các câu hỏi.
Tiêu chí loại ra
Người bệnh trong tình trạng nặng, không đủ
khả năng nhận thức, giao tiếp để trả lời câu hỏi
phỏng vấn.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ
trong dân số:

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
447
2
2/1
2
).(
)1(
p
pP
Zn
Với:
Z 1-α/2: hệ số tin cậy, với độ tin cậy 95% thì
Z = 1,96.
p: là tỷ lệ người bệnh có khả năng độc lập
trong SHHN sau phẫu thuật thay khớp háng, sử
dụng ước tính p=50% để có cỡ mẫu lớn nhất bao
trùm các yếu tố đo lường.
: là hệ số điều chỉnh=0,16.
Tính được cỡ mẫu:
n=1,962 x 0,5 x 0,5/(0,5 x 0,16)2=150 người.
Cộng thêm 10% tính vào những người bỏ
cuộc trong quá trình tiến hành nghiên cứu là 15
người. Như vậy, cỡ mẫu 165 bệnh nhân chọn
vào nghiên cứu.
Kỹ thuật chọn mẫu
Nghiên cứu sử dụng chọn mẫu thuận tiện
liên tục 165 bệnh nhân được chỉ định phục hồi
chức năng sau phẫu thuật thay khớp háng đáp
ứng tiêu chí chọn vào, không phân biệt tuổi, giới
và mức độ bệnh.
Thu thập số liệu
Sử dụng phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt
bằng bộ câu hỏi có sẵn. Điều tra viên có danh
sách bệnh nhân dự kiến ra viện sau khi tiến hành
phẫu thuật thay khớp háng từ phòng hành
chánh. Điều tra viên gặp bệnh nhân và gia đình
để giải thích đánh giá trước khi bệnh nhân xuất
viện bằng cách khám lại và phỏng vấn trực tiếp
bệnh nhân hoặc người bên cạnh chăm sóc
thường xuyên, việc phỏng vấn chỉ thực hiện vào
ngày bệnh nhân xuất viện. Nếu có các thông tin
gì thiếu cần bổ sung ngay, nếu bệnh nhân chưa
xuất viện. Các phiếu không đạt tiêu chuẩn lựa
chọn cần được loại bỏ (tỷ lệ loại bỏ trong nghiên
cứu là 98%).
Biến số nghiên cứu
Biến độc lập: Các biến số về tình trạng phẫu
thuật, tình trạng bệnh lý, biến chứng kèm theo
của bệnh nhân được trích lục thu thập từ hồ sơ
bệnh án, bao gồm số ngày nằm viện, lý do thay
khớp, bệnh lý đi kèm, loại khớp nhân tạo, chi
thay khớp nhân tạo. Biến số biến chứng kèm
theo sau thay khớp háng bao gồm tình trạng loét
và tình trạng phù chi sau phẫu thuật, được đánh
giá dựa trên có xuất hiện triệu chứng loét/phù
chi ở người bệnh trong khoảng thời gian ngay
sau phẫu thuật đến khi thực hiện phỏng vấn, ghi
nhận dựa trên hồ sơ bệnh án.
Biến phụ thuộc: Mức độ độc lập trong sinh
hoạt hàng ngày (SHHN) của người bệnh.
Bộ công cụ
Đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt
hàng ngày của người bệnh theo thang điểm
Barthel. Sau khi bộ câu hỏi được xây dựng xong,
điều tra thử nghiệm trên 10 bệnh nhân tại khoa
Chấn thương Chỉnh hình-bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả nghiên cứu thử nghiệm có hệ số
Cronbach’s alpha của thang đo Barthel là 0,78.
Đánh giá theo thang điểm Barthel với mỗi
sinh hoạt hàng ngày mức độ được đánh giá từ
0 -15 hoặc 0-10 (tùy hoạt động). Bao gồm 10
hoạt động: tự ăn uống, tự di chuyển từ giường
qua ghế, tự chải tóc đánh răng, sử dụng nhà vệ
sinh, tự tắm rửa, tự đi bộ 50 m, tự bước lên
xuống cầu thang thềm, tự thay quần áo, tự
kiểm soát đại tiện, tự kiểm soát tiểu tiện. Điều
này là để có thể đánh giá tình trạng chức năng
của bệnh nhân bị rối loạn thần kinh cơ và cơ
xương khớp. Khoảng cách giữa các mức độ
độc lập là 5 điểm, cuối cùng cộng tổng điểm
của bệnh nhân và tổng kết phân loại theo
Barthel cho từng mức độ khác nhau:
+ Phụ thuộc hoàn toàn (0 - 20 điểm),
+ Trợ giúp ít (25 -60 điểm),
+ Trợ giúp trung bình (65 – 85 điểm),
+ Độc lập (90 – 100 điểm).
Khi xét mối liên quan giữa một số đặc tính
mẫu, tình trạng bệnh sau phẫu thuật với mức độ
độc lập trong SHHN của người bệnh, thì mức độ
độc lập trong SHHN được phân loại gom thành
2 mức độ: phụ thuộc (bao gồm phụ thuộc hoàn
toàn, trợ giúp ít, trợ giúp trung bình) và độc lâp.

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền
448
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi thu thập được làm sạch, mã
hóa và nhập dữ liệu vào máy tính bằng phần
mềm EpiData 3.1 và xử lý theo phương pháp
thống kê Y học trên chương trình phần mềm
SPSS 20.0. Thống kê mô tả: sử dụng tần số và tỷ
lệ % để mô tả các biến định tính. Thống kê phân
tích: kiểm định chi bình phương hoặc Fisher
được sử dụng để xét mối liên quan giữa mức độ
độc lập trong SHHN của bệnh nhân với đăc tính
chung, tình trạng phù chi, tình trạng loét.
Ngưỡng giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa
thống kê.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng
Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của trường
Đại học Y Tế Công Cộng, số 017/2020/YTCC-HD3.
KẾT QUẢ
Có 165 bệnh nhân được thay khớp háng thỏa
mãn tiêu chí chọn vào của nghiên cứu, được tiến
hành khảo sát phỏng vấn. Toàn bộ phiếu khảo
sát đều được trả lời đầy đủ thông tin.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tại thời điểm ra
viện, khoảng 6,1% bệnh nhân phụ thuộc hoàn
toàn sinh hoạt hằng ngày của họ (khoảng 10
người bệnh), tỷ lệ bệnh nhân cần trợ giúp mức
trung bình chiếm 38,2%. Trong khi đó trợ giúp ít
và độc lập hoàn toàn lần lượt chiếm 53,9% và
1,8% (Bảng 1).
Bảng 1. Đánh giá mức độ độc lập trong SHHN của
người bệnh (n=165)
Mức độ đánh giá
Tần số (n)
Tỷ lệ (%)
Phụ thuộc hoàn toàn
10
6,1
Trợ giúp ít
89
53,9
Trợ giúp trung bình
63
38,2
Độc lập
3
1,8
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Trong số 165 bệnh nhân, số bệnh nhân nữ và
nam gần tương đương. Độ tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất là 71-80 tuổi (chiếm tỷ lệ 25,4%), thấp nhất
là nhóm dưới 41 tuổi với tỷ lệ chỉ 6,1%. Đa phần
đối tượng nghiên cứu là người ở các tỉnh khác.
Về nghề nghiệp, làm nông chiếm 57%, kế đến là
công nhân chiếm 18,2%, nội trợ chiếm 16% và
các nghề khác chiếm 7,8% (Bảng 2).
Bảng 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo thông tin
xã hội (n = 165)
Thông tin
Tần số (n)
Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam
84
50,9
Nữ
81
49,1
Nhóm tuổi
Dưới 41 tuổi
10
6,1
41-50 tuổi
23
13,9
51-60 tuổi
33
20,0
61-70 tuổi
32
19,4
71-80 tuổi
42
25,4
Trên 80 tuổi
25
15,2
Nơi sống hiện tại
TP. HCM
7
4,2
Các tỉnh khác
158
95,3
Nghề nghiệp
Công nhân
30
18,2
Làm nông
94
57,0
Nội trợ
28
16,0
Khác
13
7,8
Bảng 3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tình
trạng thay khớp háng nhân tạo (n = 165)
Thông tin
Tần số (n)
Tỷ lệ (%)
Số ngày nằm
viện
≤ 10 ngày
38
23,0
> 10 ngày
127
77,0
Lý do thay
khớp
Gẫy cổ xương đùi
79
47,9
Hoại tử chỏm vô khuẩn
77
46,7
Khác
9
5,4
Bệnh lý đi
kèm
Tăng huyết áp
32
58,2
Đái tháo đường
7
12,7
Bệnh lý khác
16
29,1
Loại khớp
nhân tạo
Bán phần
70
42,4
Toàn phần
95
57,6
Chi thay khớp
nhân tạo
Phải
70
42,4
Trái
95
57,6
Đa số bệnh nhân nằm viện trên 10 ngày với
127 bệnh nhân chiêm 77%. Về lý do thay khớp,
gẫy cổ xương đùi có 79 người chiếm 47,9%, hoại
tử chỏm vô khuẩn có 77 người bệnh cần thay
khớp chiếm 46,7% và các nguyên nhân khác có 9
trường hợp chiếm 5,4%. Về bệnh lý kèm theo khi
thay khớp có 55 trường hợp có bệnh lý kèm theo,
chủ yếu là tăng huyết áp. Khoảng 60% bệnh
nhân thay khớp toàn phần, trường hợp chi được
thay khớp, chi trái có 95 trường hợp chiếm 57,6%,
còn lại là chi phải với 42,4% có 70 người bệnh
được thay (Bảng 3).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
449
Các yếu tố liên quan đến mức độ độc lập trong
sinh hoạt hàng ngày của người bệnh
Khi xét mối liên quan giữa một số đặc tính
mẫu, tình trạng bệnh sau phẫu thuật với mức độ
độc lập trong SHHN của người bệnh, thì mức độ
độc lập trong SHHN được phân loại gom thành
2 mức độ: phụ thuộc (bao gồm phụ thuộc hoàn
toàn, trợ giúp ít, trợ giúp trung bình) và độc lâp.
Mức phụ thuộc từ 0-85 điểm và mức độc lập từ
90 – 100 điểm, được đánh giá theo thang điểm
Barthel (Bảng 4).
Bảng 4. Mối liên quan giữa một số đặc tính và mức
độ độc lập trong SHHN (n= 165)
Đặc điểm
Mức độ độc lập
trong SHHN
OR
(KTC 95%)
P
Phụ thuộc
n (%)
Độc lập
n (%)
Nhóm tuổi
≤ 40 tuổi
9 (90,0)
1 (10,0)
1,12
(0,01-7,70)
0,046(*)
> 40 tuổi
153 (98,7)
2 (1,3)
Giới
Nam
84 (100,0)
1 (1,2)
2,10
(0,11-125,4)
0,616(*)
Nữ
79 (97,5)
2 (2,5)
Thời gian nằm viện
≤ 10 ngày
36 (94,7)
2 (5,3)
0,14
(0,002-2,86)
0,133
> 10 ngày
126 (99,2)
1 (0,8)
Loại khớp nhân tạo
Toàn phần
69 (98,6)
1 (1,4)
1,48
(0,07-8,7)
0,999(*)
Bán phần
93 (97,9)
2 (2,1)
Chi thay khớp nhân tạo
Chi phải
68 (97,1)
2 (2,9)
0,36
(0,006 – 7,122)
0,575
Chi trái
94 (98,9)
1 (1,1)
Phù chi
Phù chi
38 (95,0)
2 (5,0)
0,12
0,146(*)
Bình thường
124 (99,2)
1 (0,8)
(0,002-3,06)
Loét
Có loét
2 (66,7)
1 (33,3)
0,02
0,054(*)
Không có
160 (98,8)
2 (1,2)
(0,001-2,21)
(*): Fisher's exact
Kết quả phân tích cho thấy người ở độ tuổi
≤40 tuổi có cơ hội độc lập cao hơn độ tuổi >40
tuổi 1,12 lần, có mối liên quan giữa nhóm tuổi và
mức độ độc lập trong SHHN với p <0,05. Không
có mối liên quan giữa giới tính, thời gian nằm
viện, loại khớp nhân tạo được thay, loại chi thay
khớp nhân tạo với mức độ độc lập trong SHHN
(p >0,05). Những người bệnh thay khớp háng
nhân tạo toàn phần có tỷ lệ 98,6% phụ thuộc,
người bệnh thay khớp nhân tạo bán phần có tỷ
lệ phụ thuộc 97,9%. Những người thay khớp
toàn phần có tỷ lệ phụ thuộc cao gấp 1,5 lần so
với những người thay khớp nhân tạo bán phần.
Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với
p >0,05.
Về tình trạng bệnh, không có mối liên quan
giữa phù chi mổ, tình trạng loét và mức độ độc
lập trong sinh hoạt hàng ngày, sự khác biệt
không mang ý nghĩa thống kê (p >0,05).
BÀN LUẬN
Phân tích trên 165 đối tượng cho ta thấy tại
thời điểm ra viện chỉ có 1,8% người bệnh độc
lập, còn 98,2% người bệnh phụ thuộc trong sinh
hoạt hàng ngày được đánh giá theo chỉ số
Barthel, trong đó có 53,9% người bệnh có mức
độ phụ thuộc ít, 38,2% mức độ trung bình, và
6,1% người bệnh phụ thuộc hoàn toàn. Điều này
cũng giúp chúng ta dễ dàng nhận ra sau thay
khớp do tâm lý sợ, kèm đau vết mổ nên người
bệnh hạn chế tự sinh hoạt một mình, cần có
người khác hỗ trợ một phần mới thực hiện được.
Bên cạnh đó, đặc điểm của người bệnh thay
khớp háng nhân tạo trong nghiên cứu tập trung
ở nhóm trên 50 tuổi chiếm gần 80% trên tổng số
người bệnh thay khớp. Đây là độ tuổi của tiến
trình lão hóa xương của người già, gây ra thoái
hóa kèm với các bệnh lý khác nhau, cũng như
nguy cơ té ngã, phản xạ càng lớn tuổi càng chậm
chạp đi.
Đa số bệnh nhân tự ăn uống được mà không
cần sự trợ giúp. Do người bệnh có thể ngồi dậy
hoặc trợ giúp ngồi và sử dụng hai tay linh hoạt
bình thường, không ảnh hưởng đến thần kinh
cũng như điều khiển của não bộ, nên bệnh nhân
có thể tự ăn mà không cần trợ giúp nhiều. Bệnh
nhân đa phần độc lập trong vệ sinh cá nhân và
độc lập trong thay quần áo hằng ngày, do người
bệnh thực hiện thao tác này tại giường, không
cần di chuyển chân đau hay ra khỏi giường nên
rất dễ thực hiện.
Do tâm lý bệnh nhân sau mổ, do đau vết
thương, ảnh hưởng của thuốc, nằm lâu nên bệnh

