
ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ VỚI VẤN ĐỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Bốn nội dung cơ bản của công cuộc cải cách hành chính mà Chính phủ đề
ra bao gồm: Cải cách thể chế, cải cách bộ máy và chế độ công vụ, xây dựng đội
ngũ công chức và cải cách tài chính công. Trong thực tế, bên cạnh cải cách thể
chế được xem là cái gốc của mọi cuộc cải cách thì “cải cách” con người - cán bộ,
công chức - được xem là yếu tố quyết định đối với sự thành, bại của công cuộc
cải cách hành chính nói chung.
Luật cán bộ, công chức ra đời, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010 đã đánh
dấu một bước tiến mới trong việc tách bạch giữa đội ngũ cán bộ, công chức làm
việc trong các cơ quan hành chính với đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn
vị sự nghiệp của Nhà nước. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để tập trung xây
dựng, hoàn thiện và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước. Để đáp ứng yêu
cầu này, nhiều vấn đề đã và đang đặt ra: xác định cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh
công chức; công tác đào tạo, bồi dưỡng gắn với vị trí công việc cụ thể của từng
đối tượng cán bộ, công chức; chế độ tuyển dụng công chức đảm bảo tính dân
chủ, công khai, minh bạch; chế độ khen, thưởng, đãi ngộ thích đáng, nghiêm

minh v.v… Tuy nhiên, một vấn đề không kém phần quan trọng trong việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng vừa chuyên” là ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ.
Trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, cán bộ, công chức (quản
lý, điều hành) là những người xây dựng, ban hành các văn bản quản lý; đồng thời
cán bộ, công chức (thực thi) cũng là những người áp dụng văn bản vào quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Ở đây dễ phát sinh tâm lý, người ban hành văn bản thường
đưa ra những quy định, tiêu chuẩn, định mức có lợi cho mình và tất nhiên phần
khó khăn sẽ thuộc về đối tượng áp dụng. Chưa kể đến trường hợp cán bộ, công
chức vận dụng các chủ trương, chính sách một cách tự do, tùy tiện theo hướng
bất lợi hay có lợi cho người dân tùy theo mối quan hệ, sự thân tình và cả những
khoản thù lao, quà cáp ngoài quy định. Do đó, vấn đề đạo đức công vụ được đặt
ra là cán bộ, công chức không chỉ có cái tầm mà còn phải có cái tâm trong sáng.
Tức là mọi quyết định của cán bộ công chức đặt ra trên hết thảy phải hợp lòng
dân, xuất phát từ quyền và lợi ích chính đáng của dân. Bởi vì mục đích cuối cùng
của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước chính là phục vụ nhân dân.
Một khía cạnh khác của đạo đức công vụ là tinh thần, thái độ phục vụ nhân
dân của cán bộ, công chức. Hồ Chủ Tịch đã nói: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm
đày tớ trung thành của nhân dân”, “đày tớ là phục vụ nhân dân”. Tuy nhiên,
trong thực tế vẫn còn không ít cán bộ, công chức giài quyết công việc cho dân

theo kiểu “ban ơn”, “ban phát”, tỏ thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng
nhiễu…Ttrách nhiệm xử lý công việc chưa cao, còn hiện tượng đùn đẩy, né tránh
trách nhiệm, “ăn thật làm giả” và người gánh chịu thiệt hại, hậu quả không ai
khác chính là nhân dân. Tinh thần, thái độ làm việc này hoàn toàn trái ngược với
những chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ, đó là: thái độ cư xử đúng mực, lịch
sự, nhã nhặn; thực hiện nhiệm vụ với tinh thần tận tụy, nhiệt tình, trung thực,
không vụ lợi, vun vén cá nhân “Tóm lại, đạo đức công vụ là một phạm trù tương
đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ, công chức không
chỉ trong các mối quan hệ xã hội thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện
nhiệm vụ công, đó là trong giao dịch hành chính với tổ chức, công dân. Để công
tác cải cách hành chính thực sự trở thành động lực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước, việc xây dựng các quy định, quy
chế chuẩn về trách nhiệm và đạo đức công vụ là một việc làm rất cần thiết. Tuy
nhiên, hơn ai hết bản thân cán bộ, công chức phải tự rèn luyện, trau dồi và phải
tự “vượt lên chính mình”./.
VÀI NÉT VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1. Một số quy định p.luật liên quan đến đạo đức công vụ của CBCC
Cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là sự ra đời của hệ thống pháp luật mới. Với bản

chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, những giá trị đạo đức nghề nghiệp
hướng tới xây dựng một nền công vụ mới, phục vụ nhân dân được chú trọng, hình
thành và phát triển trên nền tư tưởng đạo đức mới, pháp luật mới. Trong hệ thống
pháp luật mới đã xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hệ thống các quy phạm
pháp luật về công chức, công vụ. Nhiều nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới của
xã hội mới được thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật cho chuẩn mực
hành vi của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu xây dựng nền công vụ mới, gắn với nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Quyền lực nhà nước liên quan trực tiếp đến nền công vụ, được phản ánh qua một
trong những nội dung cốt yếu của nền công vụ, đó là đội ngũ cán bộ, công chức.
Bất kỳ nhà nước nào cũng phải định ra những chuẩn mực đạo đức trong nền
công vụ của mình. Ngoài những nội dung chuẩn mực mà nhiều quốc gia sử dụng
tương tự như nhau, thì tuỳ theo đặc điểm văn hoá, tâm lý xã hội... mỗi quốc gia lại
có những chuẩn mực đạo đức đặc thù riêng trong nền công vụ của mình. Chuẩn
mực đạo đức công vụ của cán bộ, công chức Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, N.nước và nền công vụ nước ta coi là “cái nền”, “cái gốc” của đội ngũ
CBCC và được gói gọn trong 4 chữ “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”, suy rộng ra là
“nhân, nghĩa, liêm, trí, dũng, tín”.

Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng
chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy
chế công chức Việt Nam. Với văn bản này có thể nói, đây là lần đầu tiên Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp
luật khá hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức
cách mạng Việt Nam. Trong đó, tại Lời nói đầu, nội dung về công chức và đạo
đức công vụ đã được thể hiện rất rõ: “Công chức Việt Nam là những công dân giữ
một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân…Công chức
VN phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và
nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”.
Điều 2 của Quy chế quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân,
trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh
làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ
máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Điều 3, Quy chế công chức Việt Nam quy định quyền lợi của công chức và tại
các điều tiếp theo quy định việc tuyển dụng, tổ chức, quản trị, sử dụng công
chức. Từ những quy định trên có thể thấy, ngay trong Quy chế công chức đầu
tiên của nước Việt Nam độc lập, Nhà nước ta đã nêu lên những chuẩn mực đạo
đức - pháp lý rất quan trọng đối với công chức nhà nước. Lần đầu tiên những giá