BÀN THÊM VỀ CÁC DẤU HIỆU THÔNG DỤNG NHẬN DIỆN HÀNH ĐỘNG HỎI GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG VIỆT (Trao đổi thêm về bài viết “Một số hành động hỏi gián tiếp trong thơ Tố Hữu” của tác giả Hồ Thị Phương Trang, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 4- 2014)
Nguyễn Thị Thanh Ngân1, Trương Thị Hoa
ABSTRACT In comunication, the illocutionary force of indirect ask act is found through some words/ phrases in imperative, declarative or in interrogative without requesting information. This popular and exciting speech act reflects the Vietnamese’s habit of intellect and speech.
1 TS, Trường ĐH Khoa học, ĐH Thái Nguyên
biểu hiện thứ hai, chưa khai thác kỹ dạng biểu hiện thứ nhất.
Bài viết của tác giả Hồ Thị Phương Trang đã cung cấp những tình huống có sự xuất hiện của hành động hỏi gián tiếp trong thơ Tố Hữu, từ đó khẳng định tài năng của nhà thơ trong việc tái hiện những chặng đường lịch sử của dân tộc [7, tr. 52]. Tuy nhiên, bài viết mới dừng lại ở việc khảo sát và nhận định, chưa cung cấp cách thức và những phương tiện thông dụng để nhận diện hành động thú vị này. 2. Các dấu hiệu nhận diện hành động hỏi gián tiếp được thể hiện bằng câu hỏi có lực ngôn trung cầu khiến, bày tỏ
1. Mở đầu Hành động ngôn từ là loại hành động đặc biệt, dùng ngôn ngữ làm phương tiện tác động đến người nghe (Sp2 (2)), khiến Sp2 ít nhiều thay đổi trạng thái tâm lý, vật lý. Như một quy luật, mỗi hình thức phát ngôn thường ứng với một lực ngôn trung nhất định, tuy nhiên, trong những trường hợp mà Sp1 dùng hình thức của kiểu câu này để hướng đến một hiệu lực ở lời khác, thì sản phẩm được tạo ra là một hành động ngôn từ gián tiếp. Điều này đã được đề cập trong nghiên cứu của các tác giả J. Searle, Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Đặng Thị Hảo Tâm, Mai Thị Kiều Phượng…
Như đã trình bày ở trên, dấu hiệu hình thức của câu hỏi được thể hiện ở các từ nghi vấn (đại từ, phụ từ, tiểu từ, kết từ…). Khi thực hiện hành động hỏi gián tiếp, Sp1 thường sử dụng các dấu hiệu này kết hợp với một số từ ngữ nhất định, tạo thành một tổ hợp nhất định, nhờ đó Sp2 có thể nhận ra lực ngôn trung tương ứng. Thông dụng hơn cả là hiện tượng dùng câu hỏi để thực hiện mục đích cầu khiến. Đó là khi Sp1, thông qua câu hỏi, thể hiện mong muốn Sp2 thực hiện một việc X nào đó trong tương lai. Qua khảo sát, có thể kể đến những trường hợp sau:
Trước tiên, đại từ nghi vấn “sao/ tại sao” kết hợp với tổ hợp thể hiện sự tồn tại còn/ vẫn chưa/ vẫn không để tạo thành các kết cấu mang lực cầu khiến:
Sao + còn/ vẫn chưa V [+ động, + chủ ý]
Hành động hỏi và câu hỏi- phương tiện đắc lực để thực hiện hành động này- từ lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Theo đó, một hành động hỏi thường được nhận diện nhờ hình thức của câu hỏi có sử dụng các đại từ nghi vấn, các phụ từ nghi vấn, tiểu từ nghi vấn hoặc kết từ nghi vấn. Chúng tôi đồng tình với tác giả Hồ Thị Phương Trang khi nhấn mạnh: hỏi là cách để “yêu cầu cung cấp thông tin cần biết, chưa biết” (theo Lê Đông, 1996), là cách “sử dụng câu hỏi để thực hiện các mục đích giao tiếp khác nhau” (theo Đặng Thị Hảo Tâm, 2003). Từ các quan điểm về hành động ngôn từ gián tiếp và về hành động hỏi, có thể nhận thấy hành động hỏi gián tiếp có hai dạng biểu hiện: i. lực ngôn trung hỏi được biểu hiện dưới một hình thức không phải câu hỏi, và ii. hình thức câu hỏi được dùng để biểu thị một hiệu lực ở lời khác- không phải để yêu cầu cung cấp thông tin. Các công trình gần đây thường đề cập đến hành động này ở dạng Ví dụ: (1) Kìa sao anh không ngồi xuống? ( Nam Cao, Nửa đêm) (2) Mấy cái bát này sao chưa rửa? (Nguyễn Huy Thiệp, Không có vua)
Cấu trúc nêu trên có tác dụng khá rõ trong việc thể hiện mong muốn Sp2 làm một việc X nào đó trong tương lai. Cô Nhi (2)Trong giao tiếp, người nói và người nghe liên tục đổi vai. Người nghe trở thành người nói kế tiếp sau khi Sp1 dứt lời.
(5)- Anh còn sang đây cơ à? (Dương Hướng, Bến không chồng) (6) - Còn khóc nữa à, làm em ngã còn khóc gì nữa? (Vũ Thị Xoa, Bài học cho mẹ)
giục anh Đức ngồi xuống thay vì cứ đứng mãi, rất khó coi (ví dụ 1); Cấn giục Sinh rửa bát, thay vì để đống mâm bát bẩn thỉu và bề bộn (ví dụ 2). Hơn thế nữa, sử dụng cấu trúc này, Sp1 thường hàm ý rằng Sp2 đã phần nào đoán/ biết được mong muốn của mình, song nếu không nói ra, thì Sp2 còn dùng dằng, không thực hiện ngay. Cho nên, dùng tổ hợp này, Sp1 tuy mượn hình thức câu hỏi, nhưng vẫn thể hiện yêu cầu, đề nghị đối với Sp2 một cách giục giã, sốt sắng. Trong ví dụ (5), sẵn nỗi bực tức, chú Xeng yêu cầu Nghĩa đừng bao giờ đặt chân đến nhà mình nữa. Ở ví dụ (6), người mẹ giận dữ ra lệnh cho đứa con ngừng khóc. Sp2 không khó để nhận ra lực ngôn trung cầu khiến bên trong những câu hỏi dạng này.
Ngoài đại từ “sao”, đại từ “gì” kết hợp với phụ từ tồn tại “còn” cũng biểu thị lực ngôn trung cầu khiến trong hình thức câu hỏi. Sự kết hợp giữa các thành phần này tạo thành kết cấu: S còn V [+ động, +chủ ý] gì/ làm gì (nữa)? Ví dụ: (3) - Chưa về còn đứng đó làm gì thế? (Khái Hưng, Nửa chừng xuân) (4) - Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa ? (Nguyễn Ngọc Tư, Đau gì như thể)
Thực vậy, qua khảo sát, hiếm có tình huống nào mà Sp2 - khi nhận được những câu hỏi như trên- lại trả lời Sp1 bằng cách cung cấp thông tin. Trong ví dụ 1, Đức không trả lời, mà “ngoẹo cái đầu về một bên, từ từ hạ người xuống, lom khom ngồi xổm…”. Ở ví dụ 3, chị em Mai và Huy không giải thích, mà lập tức rời buồng ông phó đốc, đi ra khỏi cổng trường. Ông Tư Nhỏ (ví dụ 4) không trả lời về một yêu cầu cụ thể, mà lập tức phủ nhận “Tui đâu có đòi gì…”. Người con trong ví dụ (6) không thể xác nhận nội dung mệnh đề trong câu hỏi của mẹ, mà phải cố nín khóc. Cho nên, có thể nói, cấu trúc đại từ nghi vấn “sao, gì” hoặc tiểu từ nghi vấn “à” khi kết hợp với tổ hợp chỉ sự tồn tại sẽ giúp Sp1 thể hiện lực ngôn trung cầu khiến.
Trong những trường hợp này, Sp1 thường giục Sp2 dừng ngay việc thực hiện hành động Y đang làm để bắt tay vào thực hiện một hành động X. Chẳng hạn, trong ví dụ (3), ông thư ký muốn chị em Mai và Huy đừng đứng mãi ở cổng trường, hãy đi nhanh cho khuất mắt. Trong ví dụ (4), cán bộ xã yêu cầu ông Tư Nhỏ chớ đòi hỏi gì thêm nữa, hãy mau rút đơn kiện về.
Bên cạnh các đại từ nghi vấn, cặp phụ từ “có… không” khi kết hợp với các phụ từ so sánh “hơn” cũng thể hiện lực cầu khiến với mong muốn Sp2 làm một việc gì đó trong tương lai:
S + V [+ động, + chủ ý] có hơn không?
Ví dụ: (7) Ốm quá thế thì nằm nhà đắp chiếu mà nghỉ có hơn không? (Nam Cao, Điếu văn) (8) Chỉ có muối mè thì ăn chung có hơn không? (Xuân Diệu, Cái hỏa lò) Lực ngôn trung của cấu trúc này cũng có nhiều nét tương đồng với cấu trúc có tiểu từ “à” kết hợp với phụ từ tồn tại “còn” hay tổ hợp “còn…. nữa” khi Sp1 thể hiện mong muốn Sp2 chấm dứt ngay việc đang làm: S (vẫn) còn+ V [+ động, + chủ ý] (nữa) à? Ví dụ:
Các tổ hợp và kết cấu này thường thể hiện sự ngạc nhiên, bất ngờ trước quyết định đột ngột hoặc sự bày tỏ đường đột của đối tác. Ví dụ: (9) U bán con thật ư? (Ngô Tất Tố, Tắt đèn) (10) Anh Chương này, thế anh đi thật à? (Nguyễn Huy Thiệp, Con gái thủy thần) (11) - Thôi đi đừng "pha", chú mà lại "đét" thế ư? (Nguyên Hồng, Bỉ vỏ) Bàng hoàng trước quyết định cuối cùng của bố mẹ, cái Tí thốt ra lời bàng hoàng, đau đớn, chứ không còn mong xác nhận thông tin (ví dụ 9). Trước quyết tâm sắt đá của Chương, cô Phượng thảng thốt hơn là hỏi han (ví dụ 10). Không thể tin là Tư Lập- lơ nghèo đến mức không có tiền gọi xe, Tám Bính thốt lời hồ nghi, thậm chí hơi giễu cợt (ví dụ 11). Cho nên, trong những tình huống tương tự, thái độ của Sp1 được thể hiện nhiều hơn là sự mong muốn đón nhận thông tin từ phía Sp2.
Với tổ hợp này, Sp1 mong muốn Sp2 thực hiện một công việc trong tương lai có lợi cho chính Sp2: ví dụ (8) ứng với lời khuyên “nên nằm nhà đắp chiếu mà nghỉ”; ví dụ (9) ứng với lời khuyên “nên ăn chung”. Thật vô lý khi nghe thấy những câu kiểu như “Ốm quá thế thì nằm nhà đắp chiếu mà nghỉ có hơn không, nhưng anh nghỉ hay không thì tùy anh” hoặc “Chỉ có muối mè thì ăn chung có hơn không, nhưng ăn chung hay ăn riêng đều được”. Do vậy, có thể khẳng định rằng tuy tồn tại dưới hình thức nghi vấn, song lực ngôn trung của câu nói vẫn mang bản chất cầu khiến. Qua khảo sát, có thể thấy tổ hợp này thường mang lực ngôn trung khuyên bảo- một hành động thuộc nhóm cầu khiến- thể hiện mong muốn (chứ không ép buộc) Sp2 nên thực hiện công việc tương lai. Vì thế, tiếp nhận câu hỏi này, Sp2 hiếm khi trả lời “có” hoặc “không” như thường lệ, mà dựa vào điều kiện thực tế để quyết định thực hiện/ không thực hiện hành động tương lai được nhắc tới trong lời của Sp1.
Như vậy, thông qua câu hỏi, Sp1 có thể sử dụng những cấu trúc nhất định- thường là cấu trúc có sự kết hợp giữa đại từ nghi vấn với thành phần chỉ sự tồn tại, hoặc tổ hợp phụ từ nghi vấn với các từ ngữ mang nghĩa đối chiếu, so sánh để thể hiện lực ngôn trung cầu khiến.
Nhờ những kết cấu này, Sp2-bằng khả năng suy ý - nhận ra thành phần nghĩa tình thái mà Sp1 cố ý thể hiện trong câu, từ đó có những cách tiếp nhận hoặc phản ứng phù hợp. Điều quan trọng là khi thực hiện hành động hỏi gián tiếp dùng câu hỏi mang lực ngôn trung cầu khiến hoặc bày tỏ, Sp1 đã giảm thiểu nguy cơ đe dọa thể diện vốn có của hành động cầu khiến, tránh được sự ngại ngần khi bày tỏ trực tiếp. 3. Các phương tiện nhận diện hành động hỏi sử dụng hình thức câu khác nhau để thể hiện lực ngôn trung nghi vấn
Ở một khía cạnh khác, câu nghi vấn có thể được dùng để thể hiện lực ngôn trung bày tỏ. Đó là khi chủ thể muốn thể hiện thái độ, trạng thái, hoặc bày tỏ quan điểm, cách đánh giá đối với một sự vật, sự việc nào đó thông qua hình thức câu hỏi. Khi đó, câu thường có sự xuất hiện của các tiểu từ nghi vấn “à, ư” kết hợp với phụ từ “thế/ thật” tạo thành kết cấu:
Ở phương diện này, xin được bàn đến hành động hỏi gián tiếp có lực ngôn trung yêu cầu/ mong muốn Sp2 cung cấp thông tin mà Sp1 cần biết bằng hình thức câu cầu khiến, câu trần thuật… Lực ngôn trung nghi vấn trong những trường hợp này mạnh đến nỗi khi trình bày lời thoại dưới S+ V+ thật à/ thế ư? S + mà (lại/ cũng) A thật à/ thế ư?
dạng viết, người viết thường dễ bị nhầm lẫn khi bổ sung vào cuối câu một dấu chấm hỏi (?) - dù trong câu không có dấu hiệu nghi vấn, thay vào đó là những dấu hiệu nhận diện hành động cầu khiến (thường được thể hiện bằng câu cầu khiến), hoặc những từ ngữ nhận diện hành động xác tín (thể hiện bằng câu trần thuật). Đây là khía cạnh mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa chú trọng khai thác.
Những ví dụ nêu trên đều có thể chuyển về hình thức câu nghi vấn mà nghĩa ngôn liệu không thay đổi (chẳng hạn: “Tôi cần thực hiện những thủ tục hải quan nào?”; “Chiếc điện thoại này được sử dụng như thế nào?”) v.v. Do vậy, khi tiếp nhận, Sp2 thường không có trạng thái tâm lý tương ứng là tin/ không tin sự tình được Sp1 tái hiện, mà nhanh chóng cung cấp thêm thông tin để giúp Sp1 hiểu rõ về điều được nhắc tới trong nội dung mệnh đề. Chẳng hạn, trong ví dụ (12), đại diện cho Ban Biên tập Cổng thông tin điện tử Hải quan hồi đáp: “Vướng mắc của ông (bà), chúng tôi có ý kiến trao đổi như sau: …”. Trong ví dụ (13), chuyên gia về điện thoại lập tức hướng dẫn cặn kẽ để Sp1 có thể sử dụng điện thoại hiệu quả nhất.
Với hình thức câu trần thuật, Sp1 thể hiện mong muốn nhận thông tin bằng các dấu hiệu nhận diện hành động nhóm xác tín (assertives - một trong năm nhóm hành động ngôn từ lớn của nhân loại- theo sự phân loại của J. Searle). Đó là sự xuất hiện của các từ “băn khoăn”, “thắc mắc”, “chưa hiểu”… ngay sau chủ ngữ chỉ chủ thể nói năng ngôi thứ nhất và trước ngữ danh từ NP chỉ một sự tình/ vấn đề thuộc sự am hiểu của Sp2 trong cấu trúc:
S+ (đang/ rất) băn khoăn về NP S + (vẫn) chưa hiểu về NP
Trên thực tế, để tường minh lực ngôn trung nghi vấn, người Việt thường bổ sung các đại từ sao/ gì/ thế nào v.v. ngay sau các từ “băn khoăn”, “thắc mắc”, “chưa/ không hiểu”… Ví dụ: (14) Thỉnh thoảng tôi có nghe người ta nói nên ăn muối iod. Nhưng thực tình tôi không hiểu tại sao phải dùng muối iod…(http://suckhoedoisong.vn ngày 12/9/2014) (15) Tôi băn khoăn tại sao con trai tôi mới 6 tuổi đã có thể bị viêm loét dạ dày… (http://vnexpress.net ngày 3/1/2013)
Tuy nhiên, ở những ngữ liệu này, “từ nghi vấn thuộc về kết cấu làm bổ ngữ trong câu, khi đó câu chứa nó không phải là câu nghi vấn” [4, tr.52]. Do vậy, hành động nói năng được thực hiện vẫn là hành động hỏi gián tiếp.
Nhìn chung, đây chính là những ví dụ tiêu biểu của lối nói vòng- một thói quen nói năng của người Việt. Thay vì hỏi trực tiếp, Sp1 cố ý dùng lối nói tái hiện để giảm bớt (nhưng không triệt tiêu) trách Tính chất trần thuật thể hiện khá rõ ở các phụ từ thời gian (đã, sẽ, đang), phụ từ mức độ (rất, quá, lắm) đi kèm các vị từ trạng thái (băn khoăn, thắc mắc), hoặc phụ từ phủ định (không, chưa, chẳng) đi kèm với các vị từ chỉ sự nhận thức (biết, hiểu…). Quan trọng nhất là, thông qua đó, Sp1 không nhằm mục đích tái hiện lại một sự tình, mà thể hiện mong muốn Sp2 giải thích rõ điều mà mình muốn biết. Ví dụ: (12) – (Bạn tôi từ Indonesia muốn gửi cho tôi 20 con gà cảnh nhỏ khoảng 1 tháng tuổi bằng máy bay). Tôi rất băn khoăn về những thủ tục hải quan và kiểm dịch mà tôi phải làm nếu muốn nhận số gà này. ngày (http://www.customs.gov.vn 06/12/2013) (13)- Tôi chưa hiểu cách sử dụng chiếc điện thoại này.
(Đề thi tốt nghiệp PTTH môn Văn năm 2014)
Hành động hỏi dạng này thường nhằm mục đích kiểm tra chất và lượng thông tin mà Sp2 thu nhận được sau một quá trình học tập, nghiên cứu, do vậy, câu trả lời thường thể hiện kiến thức, trình độ hiểu biết của Sp2 dưới dạng một quan điểm, đánh giá. Vì lực ngôn trung nghi vấn khá mạnh, nên người viết dễ nhầm lẫn khi đặt dấu chấm hỏi (?) cuối câu.
nhiệm phải trả lời của Sp2. Việc làm này tạo cơ hội để Sp2 chủ động bày tỏ sự hiểu biết về vấn đề mà Sp1 muốn biết, do vậy, thể diện dương tính của Sp2 được tôn vinh. Bên cạnh việc dùng câu trần thuật, Sp1 có thể dùng câu cầu khiến để thể hiện lực ngôn trung nghi vấn. Theo các nhà ngữ pháp truyền thống, một câu cầu khiến thường được nhận diện bởi một/ hoặc một vài dấu hiệu hình thức như: các phụ từ mệnh lệnh (hãy, đừng, chớ), các tiểu từ tình thái (thôi, nào, đi, nhé) và dấu chấm than (!) cuối câu (3) . Cụ thể hơn, tác giả Bùi Mạnh Hùng chỉ rõ rằng câu cầu khiến là câu “a. Có từ cầu khiến như hãy / đừng / chớ và chủ thể của hãy / đừng / chớ bao giờ cũng ở ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất số nhiều dạng ngôi gộp (tức là dạng ngôi thứ nhất có gộp cả ngôi thứ hai, chỉ Sp2 như: chúng ta, chúng mình, hoặc một tổ hợp từ tương đương như: mẹ con mình, bố con ta, lớp mình, v.v.); b. Có khả năng thêm từ hãy / đừng / chớ ở những ngôi đã nêu trên [4, tr.55]. http://nhandan.com.vn (
Theo quan điểm dụng học, một câu cầu khiến tiêu biểu còn có thể được nhận diện bởi tác tử (4) “xin”, hiểu theo nghĩa “từ dùng ở đầu lời yêu cầu, biểu thị thái độ khiêm tốn, lịch sự: xin giữ trật tự; xin mọi người chú ý, xin quý khách vui lòng cho xem vé” [8, tr. 1467]. Khi tác tử này kết hợp với một động từ nói năng/ một tổ hợp hàm nghĩa nói năng là khi một hành động hỏi gián tiếp được thực hiện. Chẳng hạn: (18) -Xin ông cho biết quy trình bảo quản và sử dụng vắc-xin phòng viêm gan B hiện nay. ngày 21/7/2013) (19) -Xin bà giải thích rõ hơn về vai trò của enzym trong sự hấp thụ dinh dưỡng (http://laodong.com.vn ngày trẻ. của 05/4/2011)
Khi tiếp nhận, Sp2 không thực hiện hành động vật lý X trong tương lai, mà thực hiện hành động nói năng nhằm cung cấp thêm thông tin để Sp2 hiểu rõ về vấn đề đang được nói tới. Theo khảo sát, có thể thấy hành động này thường được thực hiện trong các cuộc phỏng vấn, thể hiện khá rõ sự tôn trọng đối tác của Sp1.
Thông dụng nhất trong hành động hỏi gián tiếp dạng này là sự xuất hiện/ khả năng xuất hiện của phụ từ “hãy” kết hợp với các động từ nói năng (trình bày, bình luận, giải thích…) thể hiện mong muốn Sp2 cung cấp những thông tin mà Sp1 cần biết. Chẳng hạn: (16)-Từ cảm nhận của mình về hình tượng Lor- ca, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên. (Đề thi Đại học khối D năm 2014) (17) Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: con người cần được sống là chính mình.
Nhìn chung, khi dùng hình thức câu cầu khiến hoặc câu trần thuật để thể hiện lực ngôn trung nghi vấn, Sp1 giảm
(3) Trong nhiều trường hợp, dấu chấm than được thay thế bằng dấu chấm (.), do vậy, dấu câu có ít tác dụng nhận diện câu cầu khiến hơn cả. (4) Thuật ngữ của Cao Xuân Hạo
hẳn tính lý trí mà hành động hỏi mang lại, tăng cơ hội để Sp2 chủ động làm chủ diễn đàn, nhờ vậy, anh ta vẫn thu được lượng thông tin cần thiết mà vẫn đảm bảo tính lịch sự.
lực ngôn trung của hành động hỏi gián tiếp, tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bỏ qua vai trò, sự tác động của ngữ cảnh và khả năng suy ý của Sp2. Chính vì vậy, chỉ có thể coi đây là dấu hiệu thông dụng, mà không phải dấu hiệu chuyên dụng để nhận diện hành động đặc biệt này.
Những dấu hiệu hình thức nêu trên đã góp phần không nhỏ vào việc nhận diện TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội. [2] Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh. [3] Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4] Bùi Mạnh Hùng (2002), “Bàn về vấn đề “Phân loại câu theo mục đích phát ngôn””, Tạp chí Ngôn ngữ (2), tr. 47-57. [5] Mai Thị Kiều Phượng (2007), Phát ngôn chứa hành động hỏi trong hoạt động giao tiếp mua bán bằng tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. [6] Nguyễn Thị Thìn (2003), Câu tiếng Việt và nội dung dạy – học câu ở trường phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [7] Hồ Thị Phương Trang (2014), “Một số hành động hỏi gián tiếp trong thơ Tố Hữu”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư (4), tr.47-52. [8] Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội [9] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.